Tổng công ty nhà nước không có trong luật

Tập đoàn kinh tế, tổng công ty không phải là một loại hình doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật.

Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 quy định, công ty nhà nướcc là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, bao gồm công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên và công ty cổ phần.

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luậta tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Tuy nhiên, dù được gọi là công ty nhưng các công ty này có bản chất khác hoàn toàn với công ty theo các Luật doanh nghiệp và không đúng vối chuẩn mực chung của pháp luật trong nước cũng như quốc tế.

Thứ nhất, pháp luật không quy định về tổng công tyy nhà nước

Vì vậy, thực hiện theo lộ trình chuyển đổi hằng năm và đến 01/7/2010, các công ty nhà nước thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã chuyển đổi thành công ty TNHH hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005. Nhưng thay vì một bước ngoặt cải cách, việc chuyển đổi này mới chỉ là hình thức, với những sự thay đổi thật khó nhận biết. Đương nhiên, sau khi được chuyển đổi, nếu công ty có 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu của Nhà nước thì vẫn được gọi là công ty nhà nước.

Hiện nay, bên cạnh cách gọi xuôi “Công ty TNHH một thành viên - Tổng công ty Lương thực miền Nam” theo Nghị định số 10/2014/NĐ-CP thì vẫn tiếp tục cách gọi ngược như “Tổng công ty May 10 - Công ty cổ phần” hay “Tổng công ty Hàng không Việt Nam - Công ty cổ phần”, sau khi cổ phần hóa theo Quyết định số 1611/QĐ-TTg.

Tất cả các đạo luật doanh nghiệp đều không đề cập khái niệm “tổng công ty” và cụm từ này cũng không có “ở các nưóc có nền kinh tế thị trường phát triển hay đang phát triển, kể cả Trung Quốc”. Thời kỳ 2004 - 2014, công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước.

Thứ hai, thực tiễn về tổng công ty

Luật doanh nghiệp năm 2014 được thông qua, một lần nữa đã quy định rõ, tập đoàn kinh tế, tổng công ty thuộc các thành phần kinh tế là nhóm công ty có mối quan hệ với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc liên kết khác. Tập đoàn kinh tế, tổng công ty không phải là một loại hình doanh nghiệp, không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật.

Trên thực tế, có rất nhiều công ty vẫn đang sử dụng cụm từ “tổng công ty” trong tên gọi, với ba dạng phổ biến như sau: Một là, tên gọi không có từ “công ty”, mà chỉ có cụm từ “tổng công ty”. Ví dụ, là tên gọi đầy đủ là “Tổng công ty Hàng hải Việt Nam”. Hai là, tên gọi có cụm từ “tổng công ty” ở vị trí đầu tiên và từ “công ty” ở sau. Ví dụ “Tổng công ty Thủy sản Việt Nam - Công ty cổ phần” là tên chính thức và tên giao dịch là “Tổng công ty Thủy sản Việt Nam”. Ba là, tên gọi có từ “công ty” ở vị trí đầu tiên và cụm từ “Tổng công ty” ở sau. Ví dụ, “Công ty cổ phần -Tổng công ty Công trình đường sắt”. Như vậy, đang có sự nhập nhằng mâu thuẫn giữa công ty và tổng công ty theo quy định của pháp luật và trên thực tế.

Lý luận cho hai cách thức đặt tên trước là Luật doanh nghiệp không quy định từ “công ty” phải nằm ỏ vị trí đầu tiên. Lý luận này là không thỏa đáng và trên thực tế chỉ xuất hiện đối với các công ty đang là doanh nghiệp nhà nước hoặc đã được cổ phần hóa và đã được ghi nhận trong các văn bản của Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng, ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Tham khảo: Luận giải về Luật Doanh nghiệp năm 2014 (36 kế sách pháp lý của doanh nghiệp), tác giả: Luật sư Trương Thanh Đức (trọng tài VIAC), nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 2017

Luật gia Nguyễn Thị Hoài Thương - Phòng tư vấn doanh nghiệp của Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn 1900 6198, tổng hợp.

Khuyến nghị:
  1. Bài viết nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, E-mail: info@luatviet.net.vn, info@everest.net.vn