Kết hôn trái pháp luật

Khi kết hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ các điều kiện được pháp luật quy định, không vi phạm các trường hợp cấm thì hôn nhân mới được coi là hợp pháp.

Có thể hiểu, kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể vi phạm về độ tuổi, về ý chí, vi phạm các trường hợp cấm kết hôn do pháp luật quy định.

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Theo Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì, nam nữ kết hôn với nhau phải tuân thủ các điều kiện như: Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên; việc kết hôn do nam, nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở và việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn. Cụ thể, việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp: Đối với người đang có vợ hoặc chồng; người mất năng lực hành vi dân sự; giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.

Kết hôn trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn

Độ tuổi là một trong số những điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 với nội dung như sau: "Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên". Theo đó, vi phạm về độ tuổi kết hôn là trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai bên nam nữ chưa đạt đến độ tuổi quy định, trường hợp kết hôn vi phạm về độ tuổi còn được gọi là tảo hôn. Ngày nay, xã hội đã có những bước phát triển lớn, cách nhìn nhận của con người về hôn nhân, gia đình đã đúng đắn hơn rất nhiều, hiện tượng vi phạm điều kiện kết hôn về độ tuổi phần lớn chỉ còn tồn tại ở một số dân tộc miền núi, thiểu số. Đường lối xử lý cũng hết sức mềm dẻo, căn cứ vào tình trạng thực tế của cuộc hôn nhân mà có trường hợp xử hủy kết hôn trái pháp luật, có trường hợp không hủy kết hôn.

Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về sự tự nguyện

Kết hôn là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa hai chủ thể nam nữ được pháp luật Hôn nhân và gia đình ghi nhận và quy định những điều kiện riêng. Một trong số những điều kiện đó là sự tự nguyện của các bên nam nữ khi kết hôn, theo đó "việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở". Trái ngược với sự tự nguyện đó chính là những hành vi ép buộc, lừa dối hoặc "cưỡng ép, cản trở" các bên nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân là những hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Kết hôn vi phạm sự tự nguyện là một hiện tượng diễn ra khá phổ biến trong xã hội phong kiến, nhất là đối với những gia đình có địa vị thấp kém trong xã hội. Ngày nay, hiện tượng này chủ yếu tồn tại ở một số dân tộc miền núi điển hình như tục "cướp vợ" của người H’Mông.

Kết hôn với những người đang có vợ hoặc có chồng

Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã khẳng định một trong những nguyên tắc của hôn nhân đó là hôn nhân một vợ - một chồng. Do đó, người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn với người đã có chồng hoặc đã có vợ là kết hôn trái pháp luật. Đây chính là bản chất tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa pháp luật về Hôn nhân và gia đình của nước ta - một nước xã hội chủ nghĩa so với nhà nước phong kiến hoặc tư sản. Theo pháp luật Việt Nam, thì một người đã có vợ hoặc có chồng nhưng vợ hoặc chồng đã chết, thì được kết hôn với người khác. Sự kiện một người chết có thể hiểu theo hai ý, đó là chết sinh học và chết pháp lý. Điều cần lưu ý ở đây chính là trường hợp chết pháp lý, tức là một người bị Tòa án tuyên bố chết nhưng sau đó lại trở về. Một trường hợp nữa vẫn tồn tại ở Việt Nam đến tận bây giờ đó là những quan hệ hôn nhân xác lập trước ngày Nghị quyết số 76 ngày 25/3/1977 của Quốc hội về việc "Thống nhất pháp luật giữa hai miền Nam Bắc" và công nhận một số ít trường hợp quan hệ đa thê đối với những cán bộ miền nam tập kết ra bắc mà lấy lại vợ hoặc chồng khác. trong những trường hợp này, pháp luật cần được vận dụng một cách linh hoạt.

Kết hôn với những người mất năng lực hành vi dân sự

Tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định về những trường hợp cấm kết hôn đã nêu rõ: Cấm những người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn. Như vậy, có thể nói quy định cấm người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn là một quy định hết sức cần thiết, phù hợp với quy luật tự nhiên của quan hệ hôn nhân, đảm bảo hạnh phúc thực sự của gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 ra đời đã bỏ quy định về cấm người mắc bệnh hoa liễu kết hôn. Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 cũng một lần nữa thống nhất với các văn bản khác và đưa ra quy định không đưa người mắc bệnh HIV vào những trường hợp cấm kết hôn.

Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc

Tại khoản 3, khoản 4 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã chỉ rõ những trường hợp cấm kết hôn bao gồm: "Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng". Xét về mặt khoa học, việc cấm kết hôn giữa những người có quan hệ huyết thống để nhằm đảm bảo cho sự phát triển khỏe mạnh của con cái, sự phát triển bền vững và hạnh phúc của gia đình. Xét về yếu tố phong tục, tập quán và những quy định về chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực văn hóa theo xã hội Việt Nam, thì việc cấm những người có quan hệ huyết thống kết hôn với nhau còn có tác dụng làm lành mạnh các mối quan hệ trong gia đình, phù hợp với đạo đức và truyền thống từ xưa đến nay của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, hiện tượng kết hôn cận huyết vẫn tồn tại ở một số dân tộc miền núi và vẫn là một vấn đề vô cùng nhức nhối.

Kết hôn giữa những người cùng giới tính

Một trong những chức năng không thể thiếu được của gia đình đó chính là chức năng sinh sản. Mà chức năng này chỉ có thể được thực hiện bởi hai chủ thể khác nhau về giới tính. Do đó, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 đã dựa trên căn cứ thực hiện chức năng của gia đình và không thừa nhận kết hôn đồng giới. Trên thế giới, các cặp đồng tính đã phản ứng rất mạnh mẽ đòi quyền tự do kết hôn, một số nước như Thụy Điển, Đan Mạch hay Mĩ đã thừa nhận và cho phép kết hôn giữa những cặp đồng tính. Hiện nay, việc có công nhận hôn nhân đồng giới hay không đang là vấn đề nhạy cảm và rất được quan tâm trong quá trình lấy ý kiến về Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi.

Kết hôn trái pháp luật do vi phạm về đăng ký kết hôn

Điểm mới nổi bật của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đó là các quy định về việc đăng ký kết hôn đã cụ thể hơn và mang tính ràng buộc cao hơn. Đăng ký kết hôn là một nghi thức bắt buộc, chỉ khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc kết hôn cho họ thì giữa họ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Về thẩm quyền đăng ký kết hôn cũng được quy định rõ theo Điều 17 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ: Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn.

Như vậy có thể nhận xét về tình trạng kết hôn vi phạm điều kiện đăng ký hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp. Và những vi phạm đó thường là chỉ được phát hiện khi hai bên có yêu cầu giải quyết ly hôn tại Tòa án. Điều đó chứng tỏ, những vi phạm này là những vi phạm rất khó nhận biết, tuy không ảnh hưởng nhiều đến quyền và lợi ích của các bên nhưng lại gây khó khăn cho các cơ quan quản lý hộ tịch trong việc xác định quan hệ hôn nhân, tình trạng hôn nhân của các công dân.

Sự tồn tại của quan hệ hôn nhân trái pháp luật không phù hợp với bảnchất của quan hệ hôn nhân, đi trái với lợi ích mà pháp luật quan tâm bảo vệ.Vì vậy Nhà nước dùng biện pháp cưỡng chế đối với những vi phạm là buộccác bên phải chấm dứt việc chung sống trong quan hệ vợ chồng. Điều đó thểhiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước trước những hành vi vi phạm trongviệc kết hôn và cũng khẳng định rằng trong việc kết hôn thì lợi ích củanhững người kết hôn phải phù hợp với lợi ích gia đình và xã hội.

Luật gia Nguyễn Minh Hải - Trưởng phòng Tư vấn doanh nghiệp Công ty Luật TNHH Everest