Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa

Nhà nước được định nghĩa là bộ máy quyền lực bao gồm hai yếu tố là bộ máy quản lý và bộ máy cưỡng chế. Bộ máy đó bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, hoạt động theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất và mục đích khác với các kiểu nhà nước đã tồn tại trước nó, vì vậy nó đòi hỏi phải có một bộ máy tương ứng, phản ánh đúng bản chất của nhà nước, phù hợp với các quy luật vận động và phát triển khách quan của xã hội, phù hợp với các điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các yếu tố truyền thống, đạo đức của mỗi nước trong một giai đoạn cụ thể.
Luật sư tư vấn pháp luật - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198


1. Khái niệm bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa


Trong khoa học pháp lý khái niệm nhà nước được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, nhà nước là một hiện tượng của thượng tầng chính trị pháp lý, là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị có phạm vi hoạt động rộng lớn nhất và có sức mạnh toàn năng nhất. Theo nghĩa hẹp, nhà nước được định nghĩa là bộ máy quyền lực bao gồm hai yếu tố là bộ máy quản lý và bộ máy cưỡng chế. Bộ máy đó bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, hoạt động theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất và mục đích khác với các kiểu nhà nước đã tồn tại trước nó, vì vậy nó đòi hỏi phải có một bộ máy tương ứng, phản ánh đúng bản chất của nhà nước, phù hợp với các quy luật vận động và phát triển khách quan của xã hội, phù hợp với các điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các yếu tố truyền thống, đạo đức của mỗi nước trong một giai đoạn cụ thể.

Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện lần đầu tiên ở Công xã Pari. Mặc dù còn phôi thai, còn là bộ máy chưa hoàn chỉnh và trên thực tế nó chỉ tồn tại trong 72 ngày, nhưng bộ máy của công xã Pari đã có ý nghĩa như một "hình mẫu phác thảo" cho một mô hình của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa trong tương lai. V.I.Lênin đã nhận xét “Công xã Pari dường như đã thay thế bộ máy nhà nước bị đập tan bằng một chế độ dân chủ "chỉ" hoàn bị hơn mà thôi ... cái “chỉ" đó là một sự thay thế vĩ đại: Thay những cơ quan này bằng những cơ quan khác hẳn về nguyên tắc. Đó chính là một trong những trường hợp lượng biến thành chất” .

Cách mạng tháng Mười thành công, giai cấp vô sản Nga đã tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nước của giai cấp mình dưới dạng Cộng hòa Xô viết. Đây là bước phát triển cao hơn của mô hình bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự ra đời của hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa lại có những bước phát triển mới đa dạng hơn. Trong mỗi nước xã hội chủ nghĩa, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mình, đã tổ chức và củng cố bộ máy nhà nước theo những cách thức riêng. Tuy nhiên, ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa về thực chất đều tổ chức bộ máy nhà nước theo những nguyên tắc chung thống nhất trên cơ sở kế thừa và phát triển những nguyên tắc và yếu tố hợp lý của bộ máy công xã Pari và bộ máy nhà nước Xô viết.Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung cũng như bộ máy của nhà nước ta hiện nay có những đặc điểm riêng thể hiện ở những mặt cơ bản sau:

Thứ nhất, bộ máy quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh và không ngừng được củng cố, hoàn thiện. Xuất phát từ cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội trong chủ nghĩa xã hội, và từ bản chất của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa không thể đứng bên trên hoặc bên lề của các quá trình phát triển kinh tế xã hội, mà nó phải đứng bên trong các quá trình đó. Nhà nước phải thực hiện sự quản lý toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội để bảo đảm sự ổn định về chính trị, củng cố quyền lực nhân dân, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo; phát triển văn hoá, giáo dục... Toàn bộ những hoạt động quản lý rộng lớn và phức tạp đó đòi hỏi nhà nước phải có một bộ máy có đủ năng lực và sức mạnh để thực hiện các chức năng quản lý xã hội. Bộ máy trấn áp của nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn cần phải duy trì và củng cố, nhưng tính chất và mục đích của sự trấn áp trong nhà nước xã hội chủ nghĩa đã có sự khác biệt lớn so với sự trấn áp trong các kiểu nhà nước khác. Sức mạnh để trấn áp các lực lượng chống đối và các hành vi phạm pháp là sức mạnh tổng hợp của bộ máy nhà nước, của các tổ chức chính trị xã hội và của nhân dân. Theo qui luật vận động và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy trấn áp sẽ thu hẹp dần cùng với quá trình phát triển của bộ máy quản lý kinh tế - xã hội.

Thứ hai, bộ máy của nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ơ các nước xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, bắt nguồn từ nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình theo hai hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện do mình trực tiếp bầu ra. Nhà nước xã hội chủ nghĩa càng phát triển thì các hình thức dân chủ trực tiếp càng mở rộng và bộ máy nhà nước cũng phải được tổ chức và hoạt động bảo đảm cho nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào việc quản lý và quyết định các vấn đề của nhà nước.

Tuy tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia, nhưng trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là sự phân công và phối hợp dựa trên cơ sở tổ chức lao động (quyền lực) khoa học để tránh sự trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn trong việc thực hiện ba quyền với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan, bảo đảm sự vận hành nhịp nhàng, đồng bộ của cả bộ máy nhà nước trong quá trình thực thì quyền lực mà nhân dân trao cho nhà nước.

Thứ ba, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có đội ngũ cán bộ là những công chức mới. Đội ngũ cán bộ công chức của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đáp ứng những tiêu chuẩn chung là: có tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tận tụy phục vụ nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, có quan hệ mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm; có trình độ lý luận và thực tiễn, kiên định tư tưởng và quan điểm của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; có đủ năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể được giao trong bộ máy nhà nước; có tinh thần phụng công, thủ pháp, chí công vô tư, không quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Họ là những người luôn chịu sự giám sát của nhân dân và có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu không hoàn thành nhiệm vụ và không được sự tín nhiệm của nhân dân.

Bộ máy nhà nước hợp thành từ nhiều cơ quan và tổ chức nhà nước từ trung ương xuống địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp, phong phú và đa dạng. Mỗi cơ quan, tổ chức có vị trí, vai trò, chức năng và nhiệm vụ riêng, nhưng chúng hợp thành một thể thống thống nhất, tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, cùng thực hiện các chức năng chung và nhằm đạt được những mục tiêu thống nhất đặt ra trước nhà nước.

Các cơ quan nhà nước được thành lập theo qui định của pháp luật. Đó là những tổ chức có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có biên chế xác định với đội ngũ cán bộ được xếp theo ngạch, bậc căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể được phân công và năng lực, trình độ thực tế của mỗi người. Sự thành lập hay giải thể một hay một số cơ quan nhà nước nhất định là xuất phát từ yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ xác định trong từng thời kỳ nhất định. Số lượng các cơ quan nhà nước nhiều hay ít, đội ngũ cán bộ đông hay thưa phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan và chủ quan - nhu cầu xã hội, năng lực cán bộ và cách nhìn nhận vấn đề từ phương diện tổ chức. Hệ thống các cơ quan nhà nước bao giờ cũng có tính thứ bậc, cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp trên và làm việc theo chế độ thủ trưởng. Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước luôn có tính độc lập tương đối. Mỗi cơ quan nhà nước dù nhỏ cũng là một tổ chức hoàn chỉnh bao gồm những bộ phận khác nhau, vừa bảo đảm tính chính trị vừa bảo đảm tính chuyên nghiệp để thực hiện các công việc cụ thể. Quyền lực nhà nước (thẩm quyền) được trao cho mỗi cơ quan, hệ cơ quan là “chất keo" liên kết giữa chúng, là cơ sở để từng cơ quan thực thi nhiệm vụ của mình và cũng là tiêu chuẩn để phân biệt cơ quan nhà nước với các tổ chức phi nhà nước khác. Thẩm quyền của mỗi cơ quan được pháp luật qui định một cách chặt chẽ, rõ ràng và công khai. Trong phạm vi thẩm quyền được trao, mỗi cơ quan độc lập và chủ động thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, mặc dù các cơ quan nhà nước có tính thứ bậc và phụ thuộc lẫn nhau, nhưng các cơ quan nhà nước cấp trên cũng phải tôn trọng tính chủ động sáng tạo của các cơ quan cấp dưới, không thể áp đặt ý chí của mình một cách tùy tiện. Pháp luật là cơ sở để bảo đảm cho việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó.

Nhìn chung, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước thường được biểu hiện trên ba mặt cơ bản là ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật và kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy phạm pháp luật. Những công việc quản lý và chỉ đạo cụ thể đều dựa trên cơ sở của pháp luật và suy cho cùng là bảo đảm cho mọi hoạt động trong xã hội ổn định và được tiến hành trong khuôn khổ của pháp luật.

Để thực hiện được việc quản lý toàn diện, thống nhất, mọi mặt đời sống xã hội, hệ thống cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Toàn bộ các cơ quan được tổ chức từ trung ương xuống địa phương để thực hiện chức năng quản lý và những nhiệm vụ cụ thể trong một lĩnh vực nhất định hợp thành một hệ thống cơ cấu tổ chức ngành. Hệ thống đó được trải rộng trên phạm vi toàn quốc. Trong mỗi địa phương cụ thể, bộ máy nhà nước ở địa phương cũng có cơ cấu khá đầy đủ các cơ quan thuộc các ngành nhưng ở cấp thấp hơn. Tuy nhiên, mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa đều phải bảo đảm sự thống nhất, thông suốt từ trung ương xuống địa phương. Chế độ song trùng trực thuộc phát sinh từ yêu cầu của thực tiễn nói trên và nhằm bảo đảm tính thống nhất của bộ máy nhà nước.

Từ những phân tích trên có thể rút ra định nghĩa: Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là hệ thống các cơ quan nhà nước tư trung ương xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và phải phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể và các yếu tố như truyền thống dân tộc, điều kiện tự nhiên và xã hội ... của mỗi nước trong từng thời kỳ cụ thể. Khi nhu cầu khách quan của xã hội và những điều kiện chính trị, kinh tế văn hoá, xã hội ... thay đổi thì bộ máy nhà nước cũng phải có những cải cách hoặc đổi mới tương ứng.
Xem thêm nội dung liên quan tại:Luật hành chính hiện hành

2. Các loại cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa


Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân loại các cơ quan của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Xét theo hình thực thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp thì các cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành phápcơ quan tư pháp. Tuy nhiên, cách phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối và cũng chỉ có thể sử dụng để xem xét bộ máy nhà nước ở trung ương.

Xét theo trình tự thành lập, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được chia thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra (hệ cơ quan thứ nhất, có tính phát sinh) và các cơ quan không do nhân dân trực tiếp bầu ra (hệ cơ quan thứ hai, có tính phát sinh). Các cơ quan đại diện hình thành do kết quả bầu cử, thể hiện ý chí trực tiếp của nhân dân, vì vậy chúng nhân danh quyền lực nhân dân và mang tính chất là hệ thống cơ quan quyền lực. Các hệ thống cơ quan khác đều do cơ quan quyền lực trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Ví dụ, ơ Việt Nam đó là các cơ quan như Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và hàng loạt các cơ quan khác.

Xét theo tính chất thẩm quyền, các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể chia thành các cơ quan có thẩm quyền chung và các cơ quan có thẩm quyền riêng. Loại cơ quan thứ nhất có quyền xem xét và quyết định bất cứ vấn đề gì để bảo đảm lợi ích xã hội. Các cơ quan này bao gồm Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp. Loại cơ quan thứ hai chỉ có thẩm quyền xem xét và quyết định những vấn đề trong một phạm vì nhất định của đời sống xã hội. Các cơ quan này bao gồm các bộ, các sở, phòng...

Xét theo cấp độ thẩm quyền các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các cơ quan nhà nước ở Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương. Các cơ quan Trung ương có thẩm quyền bao trùm lên toàn bộ lãnh thổ Quốc gia. Các cơ quan đìa phương chỉ có thẩm quyền trong giới hạn của địa phương mình.
Ngoài ra còn có thể xem xét từ góc độ thời hạn thực quyền có thể chia thành các cơ quan hoạt động thường xuyên và các cơ quan lâm thời. Mỗi cách tiếp cận trên đều có ý nghĩa khoa học làm cơ sở để xem xét và giải quyết những vấn đề về bộ máy nhà nước. Tuỳ thuộc vào mục đích, nội dung và yêu cầu cụ thể của những vấn đề được đặt ra, chúng ta có thể xét từ một hay một số góc độ nhất định để đi sâu phân tích, làm rõ những nội dung cần thiết.

Tuy nhiên, để có được một cách nhìn vừa tổng quát vừa cụ thể về bộ máy nhà nước, chúng ta có thể xác định các cơ quan nhà nước theo quan điểm cấu trúc hệ thống trên cơ sở tính đến một cách toàn diện cả ba khía cạnh là trình tự thành lập, nội dung hoạt động cụ thể và hình thức thực hiện các hoạt động đó của các loại cơ quan nhà nước. Với quan điểm phân loại này bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nhà nước la nói riêng có các loại (hệ thống) cơ quan là: Các cơ quan quyền lực nhà nước; Chủ tịch nước; các cơ quan quản lý nhà nước; các cơ quan xét xử; các cơ quan kiểm sát.

  • Các cơ quan quyền lực nhà nước

Các cơ quan quyền lực nhà nước (còn gọi là hệ thống cơ quan đại diện) bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan quyền lực nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân để thể hiện và thực thi một cách thống nhất quyền lực, phải chịu trách nhiệm và phải báo cáo trước nhân dân (cử tri) về mọi hoạt động của mình.

Tất cả các cơ quan khác nhau của bộ máy nhà nước đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập ra và đều phải chịu sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước. Với tính chất và chức năng như vậy, các cơ quan quyền lực có vị trí rất quan trọng, chúng hợp thành hệ thống "xương sống" của bộ máy nhà nước.

Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp; quyết định những vấn đề trọng đại nhất của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của cơ quan nhà nước. Ơ các nước xã hội chủ nghĩa khác cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân cũng có vị trí, chức năng và vai trò tương tự như Quốc hội nước ta.

Trong cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có cơ quan thường trực như, ủy ban thường vụ Quốc hội (Việt nam), Hội đồng nhà nước (Cu Ba)... Cơ quan này do Quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Trong thời gian giữa hai kỳ họp của Quốc hội, cơ quan thường trực của Quốc hội được quyền thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội như phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên của Chính phủ, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà nước bị xâm lược ... Tuy nhiên, tất cả những quyết định trên của ủy ban thường vụ Quốc hội đều phải báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Hội đồng nhân dân các cấp ở nước ta là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra, phải chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Ơ một số nước xã hội chủ nghĩa khác cũng có cách tổ chức tương tự.

Trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch nước là một trong những thành tố rất quan trọng và trong hiến pháp thường có hẳn một chế định pháp luật về chủ tịch nước. Tuy nhiên, xuất phát từ bản chất và mục đích của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò, quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ tịch nước cũng có nhiều điểm quy định mới nhằm phát huy cao độ uy tín và trách nhiệm của cá nhân Chủ tịch nước, đồng thời phát huy vai trò của các hệ thống cơ quan nhà nước và của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Ở nước ta theo Hiến pháp năm 1992: "Chủ tịch nước là người đúng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại" (Điều 101).

Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước được trao nhiều quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, là người giữ quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, Chủ tịch nước không phải là một cơ quan thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hoặc cơ quan quản lý nhà nước ... Chủ tịch nước xét trên nhiều phương diện là cơ quan có vị trí đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.

  • Các cơ quan quản lý nhà nước

a. Các cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước

Các cơ quan quản lý nhà nước còn được gọi là hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành hoặc cơ quan hành chính nhà nước. Những tên gọi đó đều có nội dung cụ thể, phản ánh vị trí, chức năng, tính chất của các cơ quan quản lý nhà nước khi chúng được xem xét từ những góc độ khác nhau. Chẳng hạn, khi tiếp cận từ góc độ địa vị pháp lý và đặt trong mối quan hệ với cơ quan quyền lực nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước được gọi là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước. Khi xem xét tính chất của cơ quan quản lý nhà nước, chúng được gọi là cơ quan hành chính nhà nước và nếu xét từ góc độ chức năng, chúng là các cơ quan quản lý, điều hành. Trong khoa học và thực tiễn pháp lý tùy thuộc vào yêu cầu phải xem xét và giải quyết những vấn đề, những mối quan hệ cụ thể có liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước, người ta có thể tiếp cận từ một, hai hoặc toàn diện từ ba khía cạnh trên để xác định tên gọi chung cho các cơ quan quản lý nhà nước.

Đối với các nhà nước nói chung, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng cũng như ở Vệt Nam, bộ máy quản lý nhà nước bao giờ cũng là bộ máy lớn nhất, có cơ cấu phức tạp nhất và có đội ngũ công chức đông đảo nhất. Sở dĩ như vậy là vì bộ máy quản lý nhà nước phải trực tiếp tổ chức việc thực thi pháp luật trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý, điều hành mọi công việc thường nhật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ơ nước ta, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước gồm có: Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và ủy ban nhân dân các cấp.
Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, là cơ quan có thẩm quyền chung, "Chính phủ thống nhái quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung ương uống cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm cho của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân" (Điều 109, Hiến pháp 1992).

Các Bộ, cơ quan trong bộ và các cơ quan thuộc Chính phu là các cơ quan quản lý nhà nước cấp Trung ương, là cơ quan có thẩm quyền chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với ngành (nông nghiệp, công nghiệp, thương mại...) hoặc lĩnh vực (kế hoạch, tài chính, lao
động...).

Ủy ban nhân dân các cấp là các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, là cơ quan có thẩm quyền chung, thực hiện sự quản lý thống nhất mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương. Các ủy ban nhân dân được tổ chức theo ba cấp: Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện, quận, thị xã trực thuộc tỉnh và cấp xã, phường, thị trấn. ủy ban nhân dân các cấp được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc hai chiều phụ thuộc - Phụ thuộc cơ quan quản lý cấp trên và Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Các Sở Phòng, Ban chức năng của ủy ban nhân dân là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý chuyên môn trong phạm vi địa phương. Các cơ quan này cũng được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc hai chiều phụ thuộc. Nhưng khác với ủy ban nhân dân, các Sở, Phòng, Ban trực chỉ trực thuộc ủy ban nhân dân cùng cấp và cơ quan quản lý chuyên ngành cấp trên.
Toàn bộ các cơ quan nói trên hợp thành một hệ thống cơ quan quản lý thống nhất. Pháp luật còn xác lập mối quan hệ cụ thể giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, quy định thẩm quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ cụ thể của mỗi cơ quan và người đứng đầu cơ quan đó. Đồng thời, cũng quy định 'mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Những quy định đó là cơ sở để hảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của bộ máy nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của hoạt động quản lý nhà nước nói riêng và của bộ máy nhà nước nói chung.

b. Các cơ quan quốc phòng và an ninh:

Hệ thống cơ quan quốc phòng và an ninh mặc dù nằm trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước nhưng lại có vị trí và vai trò rất quan trọng trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chúng được tổ chức ra nhằm thực hiện chức năng bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do dân chủ của nhân dân, bảo vệ những thành quả cách mạng, tính mạng tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm.

Ở nước ta hệ thống cơ quan quốc phòng, an ninh gồm có: Hội đồng quốc phòng và an ninh, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan quốc phòng an ninh địa phương. Chủ tịch nước là người thống lĩnh các lực lượng quốc phòng, an ninh và giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng, an ninh. Hệ thống cơ quan quốc phòng an ninh là các cơ quan thực hiện chức năng trấn áp, bảo vệ, nhưng đồng thời cũng là cơ quan quản lý công tác quốc phòng. an ninh. Vì vậy, việc tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan này có những đặc thù riêng.

Đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nước ta nói riêng việc xây dựng bộ máy quốc phòng và an ninh vững mạnh là xuất phát từ yêu cầu thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đường lối quốc phòng và an ninh của nước ta được xác định là: "Nhà nước cùng cố và tăng cường nền quốc' phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo lệ vững chắc TỔ quốc” (Điều 44, Hiến pháp 1992).

Với đường lối đó, việc củng cố bộ máy quốc phòng và an ninh có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bảo đảm cho lực lượng vũ trang thực sự giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Bên cạnh đó cần hết sức coi trọng việc tạo điều kiện và phát huy vai trò của mỗi cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân tham gia vào công tác quốc phòng và an ninh. Để làm tết công tác quốc phòng và an ninh trong tình hình mới phải quán triệt những tư tưởng chỉ đạo quan trọng mà đại hội Đảng lần thứ VIII đã vạch ra là: Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; kết hợp quốc phòng và an ninh kinh tế; gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh; coi công tác quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu của Đảng, Nhà nước và của toàn quân, toàn dân; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh.

  • Các cơ quan xét xử:

Hệ thống các cơ quan xét xử là loại cơ quan có chức năng đặc thù của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tính đặc thù của loại cơ quan này thể hiện ở chỗ chúng trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan quyền lực nhà nước, nhưng trong hoạt động lại độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Ở nước ta hệ thống cơ quan xét xử gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các toà án khác do luật định. Trong tình hình đặc biệt Quốc hội có thể thành lập tòa án đặc biệt. Các tòa án được lập ra để nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chức năng xét xử (chỉ có Toà án mới có chức năng này). Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm mục đích phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho công dân tham gia vào công việc của nhà nước, Toà án nhân dân ở nước ta có Hội thẩm nhân dân, Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân. Khi xét xử hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán. Trong hoạt động xét xử, Toà án phải dựa trên nguyên tắc cơ bản là: Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định; xét xử tập thể và quyết định theo đa số; bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; bảo đảm cho công dân thuộc các dân tộc được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình; bảo đảm quyền giám sát của cơ quan quyền lực đối với hoạt động xét xử. (xem thêm về:Quản lý hành chính nhà nước)
  • Các cơ quan kiểm sát

Hệ thống cơ quan kiểm sát của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng có đặc thù riêng đó là, chúng được tổ chức ra không chỉ để thực hiện quyền công tố mà còn để kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Ở nước ta hệ thống cơ quan kiểm sát gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự. Hệ thống Viện kiểm sát ở nước ta được tổ chức thống nhất theo ngành dọc và thực hiện chế độ thủ trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao lãnh đạo thống nhất toàn bộ hệ thống viện kiểm sát, có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với tất cả các thành viên của các Viện kiểm sát cấp dưới.
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Ngọc Minh - Công ty Luật TNHH Everest - Tổng đài tư vấn (24/7): 1900 6198

3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa


Để bộ máy nhà nước có hiệu lực và hiệu quả trong việc quản lý xã hội thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải bảo đảm cho nó có được một cơ cấu tổ chức hợp lý, một cơ chế hoạt động đồng bộ và đội ngũ cán bộ có đủ năng lực thực hiện những nhiệm vụ được giao. Tất cả những điều đó chỉ có thể đạt được khi xác định đúng những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học, phù hợp với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn thể bộ máy nhà nước.

Hệ thống nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa rất phong phú và nhiều loại, trong đó những nguyên tắc cơ bản có tính bao quát đối với toàn thể bộ máy nhà nước thường được ghi nhận trong hiến pháp, đạo luật cơ bản của nhà nước. Ơ nước ta những nguyên tắc cơ bản đó gồm có: Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước; nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và nguyên tắc bình đẳng đoàn kết giữa các dân tộc.

  • Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của thể chế nhà nước xã hội chủ nghĩa đó là: Trong chủ nghĩa xã hội quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Xét theo quan điểm chủ thể, nguyên tắc này phản ánh sự thay đổi về chất: Nhân dân lao động từ chỗ đứng bên ngoài quyền lực nhà nước đã trở thành người nhập cuộc, trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước; từ chỗ phải phục tùng, khuất phục. lệ thuộc vào quyền lực nhà nước đã trở thành chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân không những chỉ tham gia tổ chức và thực hiện quyền lực mà còn có quyền kiểm tra hoạt động của bộ máy nhà nước và các nhân viên của bộ máy đó.

Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thể hiện trên ba phương diện cơ bản là:

Thứ nhất, phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ chức lập ra bộ máy nhà nước. Sự bảo đảm này thể hiện trước hết ở chỗ phải có đủ cơ sở pháp lý và các biện pháp tổ chức phù hợp để nhân dân thể hiện ý chí của mình, phát huy quyền làm chủ bầu ra các cơ quan đại diện của mình và thông qua hệ thống cơ quan đại diện để lập ra các hệ thống cơ quan khác. Nói cách khác, quyền lực nhà nước phải xuất phát từ nhân dân. thể hiện ý chí của nhân dân và thuộc về nhân dân.

Thứ hai, phải bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý các công việc nhà nước và quyết đính những vấn đề trọng đại của đất nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, bởi vì việc nhân dân tham gia đông đảo vào quản lý các công việc nhà nước là cơ sở để nhân dân trực tiếp phát huy sức lực, trí tuệ và vai trò làm chủ của mình trong quản lý xã hội và bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân. V.I. Lênin coi đây là phương pháp tuyệt diệu, phương pháp đặc thù chỉ có thể thực hiện được một cách đầy đủ trong chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác được trao cho những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của nhà nước. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, đồng thời là một trong những phương pháp bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động đúng mục đích phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân, chóng những biểu hiện tiêu cực như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, xa rời quần chúng của đội ngũ cán bộ nhà nước.

Ở Việt nam, từ hiến pháp đầu tiên (1946) đến Hiến pháp hiện hành (1992) đều khẳng định nguyên lý: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước trong việc tôn trọng nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như những hình thức tham gia của nhân dân vào việc thiết lập bộ máy nhà nước, tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước. Trong các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt nam vấn đề tôn trọng quyền lực nhân dân, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước luôn là một trong những nội dung quan trọng nhất. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba (khoá VIII) đã khẳng định, để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao đối với việc xây dựng Nhà nước trong thời kỳ mới thì một trong những yêu cầu cơ bản là phải "tiếp tục phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ tỉ ực tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước".
Để thực hiện tết nguyên tắc này trong thực tế đời sống, nhà nước ta cũng cần có những biện pháp để nhân dân có điều kiện nâng cao trình độ văn hóa, chính trị, pháp luật, quản lý, đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, cung cấp thông tin đầy đủ để dân biết, dân làm, dân kiểm tra các hoạt động của nhà nước.

  • Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức thông qua đó Đảng cộng sản thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng tổ chức và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa, là điều kiện quyết định để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia vào công việc của nhà nước. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước còn nhằm giữ vững bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ở nước ta, nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nguyên tắc hiến định. Điều 4, Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo xã hội". Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở các mặt chủ yếu là: Đảng vạch ra đường lối chính trị, những chủ trương và phương hướng lớn, và quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy, đồng thời chỉ đạo quá trình xây dựng pháp luật, nhất là những đạo luật quan trọng nhằm thông qua nhà nước thể chế hoá các chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật, thành những quy định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan nhà nước hoạt động theo đúng đường lối của Đảng và đào tạo cán bộ tăng cường cho bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên trong việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đặc biệt thông qua các tổ chức Đảng và các đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng không làm thay nhà nước. Năng lực lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết ở việc xây dựng, kiện toàn, sử dụng và phát huy vai trò của nhà nước. Sự tin yêu của nhân dân đối với nhà nước và sự tham gia tích cực, chủ động của nhân dân vào quản lý nhà nước là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.

Để có thể thực hiện tốt vai trò lãnh đạo đối với nhà nước, Đảng cũng phải thường xuyên củng cố, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong bộ máy nhà nước.

  • Nguyên tắc tập trung dân chủ

Tập trung dân chủ là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa sự chỉ đạo tập trung thống nhất của các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước cấp trên với việc mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước ở địa phương và các cơ quan nhà nước cấp dưới. Xét ở bình diện rộng hơn, nguyên tắc tập trung dân chủ còn là cơ sở để phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, của tập thể và đề cao trách nhiệm, ý thức kỷ luật của cán bộ, công chức nhà nước. Vì vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ áp dụng cho việc giải quyết mối quan hệ giữa trung ương với địa phương, giữa cấp trên với cấp dưới, mà còn có thể áp dụng cho mỗi cấp trong cơ cấu tổ chức, cũng như trong cơ chế hoạt động cụ thể của nó.

Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện trên ba mặt chủ yếu là: Tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động (quyền lực) và chế độ thông tin, báo cáo, kiểm tra và xử lý các vấn đề khen thưởng và kỷ luật.

Về mặt tổ chức, nguyên tắc này thể hiện ở chế độ bầu cử, cơ cấu tổ chức bộ máy, chế độ công vụ, xác lập và giải quyết mối quan hệ giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước nói chung, giữa trung ương với địa phương, giữa các bộ phận trong mỗi cơ quan nhà nước và trên bình diện chung nhất là giữa nhà nước với nhân dân.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và nước ta nói riêng, nguyên tắc tập trung dân chủ được áp dụng trong lĩnh vực tổ chức bộ máy đều xuất phát từ nguyên lý: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân trực tiếp bầu ra hệ thống cơ quan đại diện, trao quyền cho các cơ quan đại diện bầu ra hoặc phê chuẩn các hệ thống cơ quan khác. Ở Trung ương, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, mọi cơ quan khác đều bắt nguồn từ Quốc hội, phải báo cáo chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội. Ở địa phương, các Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, mọi cơ quan khác đều chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân. Đồng thời. các cơ quan địa phương phải phục tùng cơ quan Trung ương, các cơ quan cấp dưới phải phục tùng cơ quan cấp trên. Vì vậy nhiều cơ quan có chế độ hai chiều phụ thuộc. Tính tập trung là biểu hiện quan trọng của bộ máy nhà nước, nhưng sự tập trung đó đều bắt nguồn và dựa trên cơ sở của chế độ dân chủ; dân chủ sau khi đã được tập trung phải chịu sự chỉ đạo của tập trung. Các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được trao quyền để quản lý các công việc nhà nước, nhưng đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân.

Về mặt hoạt động, các cơ quan nhà nước ở Trung ương có quyền quyết định các vấn đề cơ bản, quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại trên phạm vi toàn quốc. Các cơ quan nhà nước ở địa phương quyết định những vấn đề thuộc phạm vi địa phương mình. Quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên có ý nghĩa bắt buộc đối với cơ quan nhà nước cấp dưới. Tuy nhiên, trong phạm vi thẩm quyền luật định, các cơ quan nhà nước ở địa phương, cấp dưới có quyền tự quyết định và chịu trách nhiệm về những vấn đề cụ thể ở địa phương và cấp mình. Các cơ quan nhà nước trung ương, cấp trên có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan địa phương, cấp dưới, thậm chí có thể đình chỉ, hủy bỏ quyết định của cơ quan cấp dưới của mình nếu những quyết định đó trái với luật định, nhưng đồng thời cơ quan trung ương, cấp trên cũng phải tạo điều kiện cho các cơ quan địa phương, cấp dưới phát huy quyền chủ động, sáng tạo trong giải quyết các vấn đề, góp phần vào việc thực hiện các nhiệm vụ chung của nhà nước.

Để áp dụng có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa cần chú trọng xây dựng và thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo, kiểm tra và xử lý các vấn đề kịp thời, đúng đắn, khách quan và khoa học. Các chủ trương, quyết định của cấp trên phải được thông báo kịp thời cho cấp dưới, để cấp dưới nắm được đúng tinh thần chỉ đạo của cấp trên, từ đó chủ động giải quyết các vấn đề đúng pháp luật và đáp ứng yêu cầu của cấp trên. Các hoạt động của cấp dưới phải báo cáo kịp thời và đầy đủ cho cấp trên để cấp trên nắm được và có sự chỉ đạo đối với cấp dưới, tạo ra sự nhịp nhàng, đồng bộ của cả bộ máy nhà nước. Đồng thời phải đảm bảo chế độ kỷ luật nghiêm mình trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước cấp trên phải thực hiện kiểm tra và xử lý các vi phạm một cách nghiêm minh, đúng pháp luật; đồng thời áp dụng các biện pháp khuyến khích và khen thưởng kịp thời các đơn vị cá nhân có nhiều sáng kiến, thành tích.

Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản được áp dụng cho toàn thể bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đối với mỗi hệ thống cơ quan, mỗi cơ quan thuộc các lĩnh vực và cấp bậc khác nhau cũng đòi hỏi phải có sự sáng tạo, linh hoạt trong việc áp dụng nguyên tắc này.

Ví dụ, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong các cơ quan quyền lực nhà nước có đặc thù riêng so với việc thực hiện nó trong các cơ quan quản lý nhà nước; các cơ quan quốc phòng, an ninh và các cơ quan văn hoá, giáo dục vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ cũng không hoàn toàn giống nhau. Đồng thời, khi vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ còn phải tính đến các yếu tố và điều kiện cụ thể như trình độ văn hoá, ý thức pháp luật, điều kiện kinh tế chính trị, xã hội ... Vấn đề quan trọng là phải tìm ra được một tỷ lệ hợp lý trong sự kết hợp giữa dân chủ và tập trung đối với từng cơ quan, từng loại cơ quan để bảo đảm tính thực tiễn và mang lại hiệu quả cao trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.

  • Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải được tiến hành theo đúng pháp luật trên cơ sở của pháp luật; mọi cán bộ và nhân viên nhà nước đều phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực thi quyền hạn và nhiệm vụ của mình; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa sẽ là cơ sở đảm bảo cho sự hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước, tạo ra sự thống nhất đồng bộ, phát huy được hiệu lực quản lý của nhà nước, bảo đảm công bằng xã hội.

Ở nước ta nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hiến định. Tại Điều 12, Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cương pháp chê xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân là mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiện pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa là chông các tội phạm, các vi phạm Hiên pháp và pháp luật. Mọi hành động vi phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật".

Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc phản ánh nhu cầu tự nhiên của bộ máy nhà nước, đồng thời là đòi hỏi, là yêu cầu từ phía nhân dân đối với bộ máy nhà nước và nhân viên nhà nước. Để thực hiện chủ trương củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, khắc phục tình trạng yếu kém, lỏng lẻo, thiếu nghiêm minh trong điều chỉnh pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; phải có những biện pháp giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân; tổ chức tốt công tác thực hiện và áp dụng pháp luật; đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm minh và xử lý nghiêm khắc các vi phạm pháp luật.

  • Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc

Xuất phát từ bản chất của mình các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước. Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát huy mọi khả năng của dân tộc mình tham gia tích cực vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc thường được biểu hiện ở những điểm cơ bản là:

- Về chính trị, các dân tộc đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trong quá trình thành lập và cử người tham gia vào các cơ quan nhà nước, tham gia vào quản lý các công việc của nhà nước và thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước Và thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước.

- Về kinh tế, các dân tộc bình đẳng với nhau về quyền và lợi ích kính tế, đồng thời nhà nước cũng có chính sách hỗ trợ để các dân tộc có điều kiện phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần.

- Về văn hoá, giáo dục các dân tộc đều được dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán truyền thống và văn hoá tốt đẹp của dân tộc mình.

- Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện chính sách đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm các hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

Ở nước ta đoàn kết là truyền thống quí báu của dân tộc Việt nam, là một trong những nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đại đoàn kết dân tộc là một trong những chính sách lớn, quán xuyến trong mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ. Đại đoàn kết dân tộc lấy mục tiêu chung của các dân tộc làm điểm tương đồng, đồng thời chấp nhận và tôn trọng những điểm khác nhau. Mục tiêu chung của dân tộc ta hiện nay là: Giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc được ghi nhận trong các hiến pháp của nước ta, và trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Ngoài năm nguyên tắc cơ bản trên, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có những nguyên tắc khác như: Nguyên tắc tổ chức lao động khoa học, nguyên tắc bảo đảm tính kinh tế, nguyên tắc công khai hoá... Đó không phải là những nguyên tắc cơ bản, nhưng chúng có ý nghĩa rất lớn về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để áp dụng cho từng loại cơ quan, từng cơ quan xác định trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Nội dung liên quan:Công chức là gì

4.Vấn đề xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt Nam:


Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thiết lập từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngay từ buổi đầu đã thể hiện bản chất của một kiểu nhà nước mới, một nhà nước có chế độ dân chủ rộng rãi, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ lợi ích của dân tộc, của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau hơn nửa thế kỷ, bộ máy nhà nước ta đã được củng cố, phát triển, hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng một chế độ xã hội mới.

Tuy nhiên, trong tổ chức và hoạt động, bộ máy nhà nước ta còn bộc lộ nhiều khuyết điểm và yếu kém như: Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; tiêu chuẩn cán bộ, công chức nhà nước chưa được xác định rõ ràng, vì vậy còn những cán bộ làm việc trong bộ máy nhà nước chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao; hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thiếu hoàn chỉnh; tình trạng quan liêu, cửa quyền, xa rời quần chúng... vẫn còn, làm cho hiệu lực quản lý của nhà nước thấp.

Tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta, để bộ máy đó thực sự trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả, bài trừ những khuyết điểm, yếu kém, luôn giữ vững và phát huy bản chất của một nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Trên cơ sở phân tích sâu sắc thực trạng bộ máy nhà nước ta và yêu cầu của tình hình mới Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra những kết luận quan trọng, vạch ra những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp nhằm xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Theo tinh thần và nội dung các Nghị quyết của Đảng để đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ mới. việc xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước ta phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản là:

- Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tham gia tích cực vào việc xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.

- Kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh giản, gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trước nhân dân.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
Ba yêu cầu đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây đựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công nông và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Công tác xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay bao gồm những nội dung sau đây:

- Đổi mới, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội, để Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có khả năng thực hiện có kết quả cao nhất chức năng lập pháp, quyết định ngân sách nhà nước và thực hiện quyền giám sát tối cao. Quốc hội phải có cơ cấu tổ chức hợp lý và đội ngũ đại biểu Quốc hội có đủ tiêu chuẩn là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Đồng thời phải củng cố các hội đồng nhân dân, để hội đồng nhân dân làm đúng chức năng nhiệm vụ luật định.

- Cải cách nền hành chính nhà nước, xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý thống nhất, thông suất, có hiệu lực và hiệu quả, đủ năng lực thực thi các nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tiến hành sắp xếp tổ chức, phân định rõ chức năng, thẩm quyền giữa các cấp, thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ; tăng cường công tác tổ chức và hoạt động thanh tra; kiện toàn tổ chức chính quyền địa phương; xây dựng đội ngũ công chức có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành công việc trong bộ máy nhà nước.

- Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp: Cải tiến tổ chức và đổi mới hoạt động của hệ thống cơ quan tòa ấn theo hướng hai cấp xét xử; củng cố và kiện toàn hệ thống cơ quan kiểm sát; sắp xếp lại hệ thống cơ quan điều tra theo hướng tinh gọn, giảm bớt đầu mối; kiện toàn các tổ chức thi hành án; củng cố các tổ chức bổ trợ tư pháp...

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm giữ vững bản chất của nhà nước, bảo đảm quyền lực nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước, bảo đảm chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đồng thời phát huy trách nhiệm, tính chủ động và hiệu lực cao trong quản lý, điều hành bộ máy nhà nước.

- Tiến hành kiên quyết và thường xuyên cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, xử lý nghiêm minh những người vi phạm pháp luật đồng thời tăng cường công tác xây dựng pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật và củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ quan nhà nước.

Bài viết được thực hiện bởi: thạc sĩ, luật sư Phạm Ngọc Minh - Giám đốc Công ty Luật TNHH Everest, Giảng viên khoa Luật kinh tế - Trường Đại học Hòa Bình


Xem thêm:

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest:

  1. Bài viết được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị đây chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest quaTổng đài tư vấn pháp luật19006198, E-mail:info@luatviet.net.vn,info@everest.net.vn.