Tư vấn về quyền, nghĩa vụ thăm nom con sau khi ly hôn

Người không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom chăm sóc con mà người trực tiếp nuôi dưỡng không được cản trở.

Hỏi: Tôi và vợ kết hôn được hai năm thì ly hôn. Chúng tôi có một bé trai ba tuổi. Khi ly hôn, Toà án giao cho vợ tôi quyền nuôi con. Tôi luôn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Nhưng nay, vợ tôi lại ngăn cấm không cho tôi và ông bà nội được đi lại thăm nom chăm sóc bé. Nhờ Luật sư tư vấn, việc làm của vợ cũ của tôi có đúng không?

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Bảo Ngọc - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:

"1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó".

Theo quy định viện dẫn trên, người không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom chăm sóc con mà người trực tiếp nuôi dưỡng không được cản trở. Khi người vợ ngăn cản quyền chính đáng của anh (chồng và họ hàng bên nội), anh có thể gửi đơn yêu cầu đến tòa án nơi mà người vợ đang cư trú để được giải quyết.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.