Tư vấn trường hợp chấm dứt HĐLĐ với cán bộ công đoàn

Theo quy định của Bộ luật lao động 2012, trường hợp hết thời hạn hợp đồng thì các bên người sử dụng lao động có quyền chấm dứt hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192.

Hỏi:D làm việc tại Công ty A theo hợp đồng lao động có thời hạn 24 tháng từ 01/01/2015 đến 31/12/2016. Đến tháng 02 năm 2016 anh D được bầu làm Chủ tịch Công đoàn Cơ sở Công ty A, nhiệm kỳ 2014-2016 (cán bộ công đoàn không chuyên trách). Ngày 15/12/2016 Công ty A thông báo bằng văn bản chấm dứt hợp đồng lao động với anh D vào thời điểm 31/12/2016, vì hết thời hạn hợp đồng lao động giữa Công ty với anh D. Anh D đề nghị Công ty gia hạn hợp đồng lao động, nhưng lãnh đạo công ty không giải quyết? Việc công ty A chấm dứt hợp đồng lao động với anh D là đúng hay sai? (Vũ Minh - Hải Phòng)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo như nội dung thư mà bạn yêu cầu thì thời hạn chấm dứt hợp đồng của anh D là ngày 31/12/2014. Theo quy định của Bộ luật lao động 2012, trường hợp hết thời hạn hợp đồng thì các bên người sử dụng lao động có quyền chấm dứt hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192:

"Khi người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ công đoàn mà hết hạn hợp đồng lao động thì được gia hạn hợp đồng lao động đã giao kết đến hết nhiệm kỳ."

Do đó, việc chấm dứt hợp đồng của công ty với anh D là không phù hợp với quy định của pháp luật. Anh D có thể yêu cầu người sử dụng lao động bồi thường cho mình theo theo quy định của Bộ luật lao động 2012:

"Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước."

Nếu người sử dụng lao động không tiến hành bồi thường thì anh D có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân nơi công ty có trụ sở để yêu cầu tòa án giải quyết.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.