Tư vấn pháp luật: quy định về hợp đồng vô thời hạn

Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây: a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn...

Hỏi: Tôi đang làm ở một công ty. Hợp đồng lao động (HĐLĐ) một năm của tôi đến ngày 18.1.2015 là hết hạn, mà đến ngày 26.1.2015 nhân sự mới gửi hợp đồng tiếp theo để ký. Nhưng tôi không ký và vẫn đi làm tới cuối tháng 1 để lĩnh lương mới viết đơn xin nghỉ mà không báo trước.Giờ nhân sự nói vì tôi không ký hợp đồng tiếp theo mà làm qua thời hạn hợp đồng trước và nghỉ không báo nên xem như trong khoảng thời gian đó tôi đang làm với hợp đồng vô thời hạn. Mà hợp đồng vô thời hạn muốn nghỉ phải báo trước 45 ngày. Nên tôi phải bồi thường 45 ngày đó. Tôi khôngbiết nhân sự nói vậy có đúng không? (Bùi Anh Tuấn - Hà Nội)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 22 Bộ luật lao động 2012 quy định như sau:

"Điều 22. Loại hợp đồng lao động:1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn;Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.2. Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn."

Hợp đồng lao động của bạn hết hạn từ 18/1/2015, 26/1/2015 nhân sự gửi hợp đồng tiếp theo để ký tức là vẫn đang trong thời hạn quy định. Bạn không ký hợp đồng mới mà vẫn tiếp tục đi làm thì qua 30 ngày đó, hợp đồng đã giao kết của bạn thành hợp đồng không xác định thời hạn.

Muốn chấm dứt hợp đồng lao động không xác định thời hạn thì bạn phải tuân thủ quy định tại điều 37 Bộ luật lao động 2012:

"3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này."

Nếu bạn không báo trước 45 ngày mà vẫn cứ nghỉ thì bạn đã chấm dứt hợp đồng lao động trái luật, theo đó, nghia vụ của bạn sẽ là:

"Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này."

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.