Tư vấn đòi lại tài sản đã tặng cho?

Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận

Hỏi:Tôi đã có vợ và con. trong thời gian làm việc tôi có quen một người phụ nữ khác. Người phụ nữ nói với tôi là đã có gia đình nhưng đã ly thân. trong thời gian đó hai chúng tôi có quan hệ tình cảm với nhau nên tôi có mua tặng cho cô ấy một ngôi nhà và một chiếc xe máy để đi lại.Khi tôi biết cô ấychưa ly hôn tôi muốn đòi lại phần tài sản mà tôi đã mua cho cô ấy.Xin luật sư cho tôi biết là cô đó có phạm tôi lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không Nếu khôngthì tôi có đòi lại đượcphần tài sản đó hay không? (Khánh Hưng - Hà Nam)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198 Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Hương - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Bộ luật Dân sự 2005 quy định:

"Điều 465. Hợp đồng tặng cho tài sản

Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận.

Điều 466.Tặng cho động sản

Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài sản; đối với động sản mà pháp luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.

Điều 467.Tặng cho bất động sản

1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản".

Theo như bạn trình bày thì bạn đã tặng cho người phụ nữ đó một căn nhà và một chiếc xe máy. Như vậy, trong trường hợp này chiếc xe máy sẽ thuộc sở hữu của người phụ nữ này kể từ thời điểm đăng ký. Còn đối với việc tặng cho căn nhà thì hợp đồng tặng cho giữa bạn và người phụ nữ này phải được thực hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, phải đăng ký quyền sở hữu.

Trường hợp đã tặng cho hoàn tất, việc chuyển quyền sở hữu đã xong thì tài sản đã thuộc về người được tặng cho, người tặng cho không thể đòi lại.

Tuy nhiên Điều 170 BLDS 2005 có quy định về việctặng cho tài sản có điều kiện như sau:

“1. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

2. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.

3. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại".

Như vậy, theo quy định trên thì bạn chỉ có thể đòi lại tài sản đã tặng cho nếu đây là trường hợp tặng cho tài sản có điều kiện và bên được tặng cho không thực hiện nghĩa vụ sau khi được tặng cho.

Khoản 1 Điều 139 BLHS quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

Do đặc điểm riêng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là“chiếm đoạt”,nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối cũng được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Không có thủ đoạn thuộc về tư tưởng, suy nghĩ của người phạm tội.

Như vậy, theo như bạn trình bày thì người phụ nữ này không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì người này không có thủ đoạt gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Vì người phụ nữ đó đã nói với bạn rằng “đã có gia đình nhưng đã ly thân” (có nghĩa là người này đã đăng ký kết hôn và chưa ly hôn chỉ là họ không còn ở cùng nhau). Do đó, người phụ nữ này đã nói trước với bạn điều này chứ không hề có thủ đoạt lừa dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.