Đăng thông tin xúc phạm danh dự, nhân phẩm có cấu thành tội vu khống không?

Luật sư tư vấn về việc đăng thông tin xúc phạm danh dự, nhân phẩm có cấu thành tội vu khống không...

Hỏi: Vợ chồng tôi xảy ra mâu thuẫn, sống ly thân và đang làm thủ tục ly hôn, chúng tôi có 2 con trai, 1 bé 4 tuổi và 1 bé 6 tuổi.Trong thời gian chờ toà án giải quyết ly hôn tôi về thăm con nhưng bị gia đình chồng ngăn cản, chị chồng đánh tôi và đăng lên facebook nội dung bôi nhọ danh dự nhân phẩm của tôi, cụ thể nội dung là: "Tôi xin thông báo tất cả bạn bè gần xa con T.V làm tại đài truyền hình đã ngoại tình với một thằng ở cơ quan, con đĩ về làm vợ nhưng con này làm vợ nhưng lại đi làm đĩ. Nó là cháu bà D làm tại khoa sản bệnh viện tỉnh đã nghĩ hưu". Nội dung rõ ý vu khống nhưng câu văn hơi lũng củng, vậy xin hỏi luật sư:Nội dung như vậy đã đủ cấu thành nên tội vu khống chưa? Và khung hình phạt là như thế nào? Tôi muốn kiện chị chồng tôi về tội vu khống được không? (Nguyễn Khang - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Với những thông tin mà bạn cung cấp, chúng tôi có thể trả lời như sau:

Thứ nhất: Hành vi của chị chồng bạn có cấu thành tội vu khống không?

Tội vu khống đã đượcBộ luật hình sự quy định rõ tại Điều 22, cụ thể như sau:

"Điều 122quy định về tội vu khống:1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:a) Có tổ chức;b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;c) Đối với nhiều người;d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;đ) Đối với người thi hành công vụ;e) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm".

Theo quy định trên, một hành vi sẽ bị coi là phạm tội vu khống khi có một trong các biểu hiện sau đây:

- Tạo ra những thông tin không đúng sự thực và loan truyền các thông tin đó mặc dù biết đó là thông tin không đúng sự thực.

- Tuy không tự đưa ra các thông tin không đúng sự thực nhưng có hành vi loan truyền thông tin sai do người khác tạo ra mặc dù biết rõ đó là những thông tin sai sự thực.

Lưu ý đối với cả hai trường hợp trên, nội dung của thông tin sai sự thực phải thể hiện sự xúc phạm đến danh dự, uy tín, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Loan truyền thông tin sai sự thực có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như truyền miệng, qua các phương tiện thông tin đại chúng, viết đơn, thư tố giác …Nếu người phạm tội nhầm tưởng thông tin mình loan truyền là đúng sự thực thì hành vi không cấu thành tội phạm.

- Bịa đặt người khác là phạm tội và tố cáo họ trước các cơ quan có thẩm quyền. Đây là một dạng đặc biệt của hành vi vu khống. Đối với dạng hành vi này, tính nguy hiểm cho xã hội của tội vu khống phụ thuộc nhiều vào loại tội bị vu khống. Bộ luật Hình sự quy định vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là cấu thành tăng nặng với mức hình phạt từ một năm đến bảy năm tù.

Như vậy, chị chồng bạn đã có những hành vi: đăng thông tin nội dung thể hiện sự xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, xâm phạm đến quyền và lợi ích của bạn trên mạng xã hội (Facebook). Tuy nhiên, cần xem xét 2 trường hợp sau:

1. Nếu chị chồng bạn biết đây là thông tin sai sự thật mà vẫn đăng thì sẽ phạm tội vu khống.

2. Nếu do hiểu nhầm bạn, lầm tưởng những thông tin này là đúng sự thật và do ghét bạnmà đăng lên mạng xã hội (chị chồng bạn không hề biết đây là thông tin sai sự thật)thìsẽ không phạm tội vu khống.

Thứ hai: Khung hình phạt đối với tội vu khống.

Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, khung hình phạt đối với tội này được quy định lần lượt như sau:

-phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

-phạt tù từ một năm đến bảy năm.

Ngoài ra, còn có hình phạt bổ sung:Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Thứ ba: Bạn có thể kiện chị chồng mình về tội vu khống không?

Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định việc người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố, cụ thể như sau:

"Điều 105: Khởi tố vị án hình sự theo yêu cầu của người bị hại:1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức".

Như vậy, bạn hoàn toàn có thể nộp đơnyêu cầu cơ quan có thẩm quyền (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức)khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi củachị chồng bạn.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.