Công ty không trả sổ bảo hiểm khi hợp đồng lao động hết hạn, đúng không?

Khi chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động không có quyền giữ sổ bảo hiểm xã hội của người lao động.

Hỏi: Em có ký hợp đồng lao động thời hạn 01 năm với công ty kể từ ngày 15/11/2014. Đến ngày 16/10/2015, em có làm đơn đề nghị được chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 16/11/2015 với lý do hợp đồng lao động hết hạn và không có nhu cầu ký tiếp hợp đồng. Ngày 30/10/2015, Giám đốc đã phê duyệt trêm đơn đề nghị của em là đồng ý không ký tiếp hợp đồng và yêu cầu em hoàn trả lại số tiền thưởng đã chi giữa năm 2015 mới hoàn trả sổ bảo hiểm xã hội với lý do số tiền thưởng này là chi trước cho cuối năm 2015, do em chưa làm việc hết năm 2015 và kết quả làm việc trong những tháng trước đó (trong năm 2015) chưa đạt yêu cầu nên phải hoàn trả lại. Ngày 4/11/2015, em đã bàn giao xong công việc và có viết đơn xin nghỉ phép từ ngày 05/11/2015 đến 15/11/2015 (07 ngày làm việc) do trong năm 2015 em vẫn còn 8 ngày nghỉ phép chưa sử dụng. Cùng ngày, đơn xin nghỉ phép của em đã được Giám đốc phê duyệt. Luật sư có thể giải đáp giúp em một số thắc mắc như sau: Việc công ty không hoàn trả sổ bảo hiểm cho em có đúng quy định của pháp luật hay không? Em cần phải làm gì để lấy lại được sổ bảo hiểm của mình? (Đặng Thu Hà - Hải Dương)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Tâm - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, Về sổ bảo hiểm xxa hội của anh (chị): Căn cứ Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: "Điều 47. Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động: 1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động. 2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày. 3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động. 4. Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản thì tiền lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết được ưu tiên thanh toán". Như vậy, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày. Công ty không có quyền giữ sổ bảo hiểm xã hội của người lao động, Để nhận lại sổ bảo hiểm xã hội của mình anh (chị) cần liên lạc trực tiếp với Công ty để nhận lại, có thể làm đơn kiến nghị gửi ban lãnh đạo Công ty.
Thứ hai, Về vấn đề tiền thưởng: Phụ thuộc vào quy định của Công ty, Hợp đồng lao động... Nếu khi nhận tiền thưởng, công ty không thông báo về việc tiền thưởng đó là của cả năm 2015, trên hợp đồng lao động hoặc quy định của Công ty cũng không có thì việc Công ty yêu cầu anh (chị) hoàn trả lại khoản tiền thưởng là không có cơ sở.
Thứ ba, về việc anh (chị) tự khấu trừ ngày nghỉ phép vào những ngày thông báo nghỉ làm: Theo quy định tại Điều 47 nêu trên thì đối với trường hợp hợp đồng lao động hết thời hạn thì nghĩa vụ thông báo là của người sử dụng lao động. Nếu anh (chị) muốn nghỉ trước khi hợp đồng lao động hết thời hạn và muốn khấu trừ vào ngày nghỉ phép năm thì phải có sự chấp thuận của người sử dụng lao động. Nếu chưa có sự chấp thuận mà anh (chị) tự nghỉ như vậy là không đúng quy định của pháp luật lao động, nghĩa là anh (chị) đang đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.