Xác định về người có quyền nuôi con sau khi ly hôn?

Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con

Hỏi: Vợ chồng tôi kết hôn với nhau và chúng tôi đã có 2 con gái, con gái đầu được 4 tuổi, con gái út được gần 2 tuổi. Từ khi vợ chồng tôi sinh cháu đầu thì chúng tôi luôn trong tình trạng mâu thuẫn, mỗi lần cãi nhau là vợ tôi đòi ly hôn, vì tôi là người ở dễ nên cũng có phần nào vợ thiếu tôn trọng, 2 lần trước vợ tôi đơn phương viết đơn ly hôn nhưng tôi không ký.Và gia đình vợ cũng khuyên răng vợ tôi nên từ bỏ 2 người kia đi để sống gia đình cho hạnh phúc thì tôi nghĩ đã xong. Nhưng vài ngày nay vợ tôi đi đâu cũng nói tôi và côấy sẽ ly hôn và ko chấp nhận tôi nữa. Theo Luật sư thì nếu chúng tôi ly hôn tôi nhận nuôi 2 đứa con thì tòa có đồng ý không? (Hoàng Mai - Thanh Hóa)

 Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Bảo Ngọc - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn: "1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi".

Điều 81 Luật HN&GĐ quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: "1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con".

Theo thông tin bạn cung cấp cho chúng tôi hiện nay đời sống hôn nhân của vợ chồng bạn có nhiều mâu thuẫn và vợ chồng bạn muốn ly hôn. Sau khi ly hôn, bạn có mong muốn được nuôi cả 2 đứa con của bạn tuy nhiên do 2 con của bạn còn nhỏ và căn cứ theo quy định của pháp luật thì bạn không được nuôi cả 2 con.Đối với bé thứ nhất được 4 tuổi: Sau khi ly hôn tòa sẽ căn cứ vào điều kiện thực tế, khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, các điều kiện về vật chất và tinh thần của bạn dành cho bé nếu bạn có các điều kiện trên một cách tốt nhất thì tòa có thể cho bạn nuôi bé thứ nhất.

Đối với bé thứ 2 theo bạn cung cấp thông tin hiện nay bé mới được gần 2 tuổi tức là chưa được 36 tháng tuổi thì khi ly hôn tòa sẽ để cho vợ bạn nuôi bé thứ hai. Bởi vì theo quy định của pháp luật con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi(Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình 2014), chỉ trong trường hợp vợ bạn không có đủđiều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc vợ chồng bạncó thỏa thuận để bạn nuôi cả 2bé thì bạn mới được nuôi cả bé thứ 2.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.