Tư vấn về việc huỷ đăng ký kết hôn?

Việc hủy giấy chứng nhận đăng ký kết hôn phải thuộc một trong các trường hợp việc đăng ký kết hôn không tuân thủ và vi phạm các quy định về trình tự thủ tục đăng ký kết hôn

Hỏi: Tôi và bạn gái trước đây vì kinh tế nên cần thực hiện vay vốn và yêu cầu xác thực để đảm bảo điều kiện thì phải có giấy đăng ký kết hôn (gia đình hai bên không biết), để được tăng mức vay và các điều kiện đi kèm. Khi đăng ký kết hôn xong thì cũng không thực hiện vay được vì khi xác thực kt3 bạn gái tôi chưa về nhà tôi sống.Nhưng hiện tại không thể đến với nhau được vì nhiều lý do từ hai phía gia đìnhvà cả năm nay chúng tôi cũng không còn gặp mặt, tình cảm hiện tại không thể đi đến hôn nhân và hạnh phúc được, vì chưa thực hiện đám cưới nên chúng tôi ngại hai tiếng "ly hôn". Bạn gái tôi hiện đang rất hoang mang lo sợ vì sợ gia đình cha mẹ biết, cô ấy không muốn gia đình xảy ra thêm chuyện vì mình.... Xin hỏi luật sư trường hợp của tôi có thể nào hủy giấy đăng ký kết hôn được không? (Nguyễn Thu - Hải Dương)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phan Thùy Dung - Tổ tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 5 điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: "Kết hônlà việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn".

Điều 8 Luật HN&GĐ quy định điều kiện kết hôn: "1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này".

Khoản 2 điều 5 Luật HN&GĐ quy định: "Cấm các hành vi sau đây:a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;h) Bạo lực gia đình;i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi".

Do đó, sau khi đăng ký kết hôn không thể làm thủ tục hủy giấy đăng ký kết hôn được. Việc hủy giấy chứng nhận đăng ký kết hôn phải thuộc một trong các trường hợp việc đăng ký kết hôn không tuân thủ và vi phạm các quy định về trình tự thủ tục đăng ký kết hôn. Đối với trường hợp của bạn việc cha mẹ 2 bạn không biết 2 bạn đăng ký kết hôn không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của giấy đăng ký kết hôn và 2 bạn cũng tự nguyện đăng ký đăng ký kết hôn với nhau để nhằm mục đích phát triển kinh tế không vi phạm các quy định tại khoản 2 điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình 2014 nên giấy chứng nhận kết hôn của 2 bạn đã có hiệu lực.Quan hệ vợ chồng của bạn được pháp luật thừa nhận. Nếu bạn muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân thì phải tiến hành theo thủ tục li hôn theo quy định của pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.