Tư vấn pháp luật thừa kế thế vị?

Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống

Hỏi: Ông bà em có 2 người con trai là Hùng và Khoa, 1 người con gái là Mai. Ông bà có một căn nhà tạo lập chung. Năm 2000, ông mất và có lập di chúc chia đều phần di sản cho vợ và các con. Thời điểm mở thừa kế là vào tháng 3 năm 2015.Tháng 11 năm 2014, bà mất. Trước khi bà mất có lập di chúc để lại toàn bộ di sản của bà cho con trai tên Hùng.Vào thời điểm mở thừa kế, người con trai tên Khoa đã từ chối không nhận di sản của ông để lại theo di chúc và đã làm văn bản từ chối di sản theo quy định của pháp luật.Người con trai tên Khoa có một người convà người con gái tên Mai có một người con. Năm 2001 người con gái tên Mai mất.Ông bà không có nợ nần gì cả.Vậy phần di sản của ông bà sẽ được chia như thế nào? (Ngọc Hân - Ninh Bình)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Ông để lại di chúc chia đều phần di sản cho vợ (bà) và các con (Hùng, Khoa và Mai) vì vậy, vợ và các con của ông mỗi người sẽ được hưởng phần di sản là (1/2) : 4 = 1/8 giá trị căn nhà. Do căn nhà là tài sản chung của bà và ông nên bà sẽ được hưởng1/2+1/8= 5/8 giá trị căn nhà.

Căn cứ Điều 635 và Điều642 BLDS năm 2005 quy định:

- "Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế". (Điều 635)

- "1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.

3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế". (Điều 642)

Như vậy, việc người con trai tên Khoa từ chối nhận di sản của ông để lại theo di chúc và đã làm văn bản từ chối nhận di sản theo quy định của pháp luật và người con gái tên Mai mất trước thời điểm mở thừa kếnên phần di sản thừa kế mà Khoa và Maiđược nhận sẽ được chia theo pháp luật.

Điểm a khoản 1 và khoản 2Điều 676 BLDS năm 2005 quy định:

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau".

Như vậy,phần di sản của Mai và Khoa = 1/8 + 1/8 = 1/4 giá trị căn nhà sẽ được chia theo pháp luậtcho bà (vợ của ông) và người con trai tên Hùng, mỗi người được hưởng thêm phần di sản = (1/4) : 2 = 1/8 giá trị căn nhà. Vìvậy, tổng phần di sản của bà = 5/8 + 1/8 = 3/4 giá trị căn nhà, tổng phần di sản của Hùng = 1/8 + 1/8 = 1/4 giá trị căn nhà.

Bà mất, để lại toàn bộdi sản cho người con trai tên Hùng, vì vậy người con trai tên Hùng được hưởng nốt 3/4 giá trị căn nhà.

Do vấn đề thừa kế thế vị chỉ đặt ra đối với trường hợp chia di sản thừa kế theo pháp luật, nên trong trường hợp này, ông có để lại di chúc nên phần di sản thừa kế của Mai, con của Mai không được hưởng thừa kế thế vị.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.