Tư vấn pháp luật: người sử dụng lao động tự ý cho thôi việc

Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: 1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội,...

Hỏi: Do thu hẹp sản xuất, công ty cho ngươi flao động nghỉ việc. Công ty thông báo với người lao động do làm chưa được năm nên không trả bất kỳ khoản bồi thường nào. Vậy tôi xin hỏi Công ty giải quyết cho chúng tôi nghỉ việc và không đền bù bất kỳ khoản nào do chưa làm việc đủ 1 năm thì có đúng hay không? Và nếu sai thì chúng tôi phải làm như thế nào? Có đi thưa kiện được không? (Hiếu Nguyễn - Hải Dương)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo thông tin bạn cung cấp, công ty bạn làm việc đã tự ý cho nhận viên nghỉ việc trước thời hạn hợp đồng lao động kết thúc. Đây là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

Điều 42 Bộ luật Lao động 2012 quy định như sau:

“Điều 42. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.”

Như vậy, với trường hợp của bạn, công ty bạn làm việc phải có trách nhiệm bồi thường cho nhân viên khi tự ý cho nhân viên nghỉ việc khi chưa hết thời hạn hợp đồng, không liên quan đến thời gian nhân viên làm việc trong bao lâu.

Nếu công ty vẫn tiếp tục hoạt động thì phải có trách nhiệm nhận nhân viên trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã ký kết, đồng thời phải bồi thường tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong 2 tháng công ty cho nghỉ việc cộng với ít nhất 2 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. Ngoài ra, các trường hợp khác bạn tham khảo quy định tại khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này.

Nếu công ty không chịu bồi thường theo pháp luật, bạn và các nhân viên có thể làm đơn khiếu nại gửi đến:

- Công đoàn công ty

- Liên đoàn lao động cấp huyện nơi công ty đăng ký kinh doanh (nếu không được giải quyết thỏa đáng tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Liên đoàn lao động cấp tỉnh/thành phố)

- Phòng Lao động,Thương binh vàxã hội cấp huyện nơi công ty đăng ký kinh doanh ( nếu không được giải quyết thỏa đáng, tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Sở Lao động , Thương binh và xã hội cấp tỉnh/thành phố).

- Thanh tra lao động

Nếu vẫn không được giải quyết, bạn có thể khởi kiện công ty tại Tòa án nhân dân cấp huyện nơi công ty đăng ký kinh doanh.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.