Tư vấn pháp luật: chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định pháp luật

Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật Lao Động năm 2012.2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.

Hỏi: Tôi đang làm cho công ty của Hàn Quốc thì công ty tuyên bố ngừng hoạt động tạm thời đóng cửa kiểm kê tài sản. Trước khi nghỉ giám đốc có thông báo là đền bù 3 tháng hợp đồng cho mọi người nhưng 1 tuần sau công ty có họp để thông báo đi làm vào thứ 7 nhưng tôi không được thông báo và không đến.Đến ngày chủ nhật thì phiên dịch gọi điện thoại cho tôi không phải đến làm nữa công ty sẽ trả hết lương và tôi cũng không đến làm nữa.Như vậy ngoài số tiền lương của tháng đã làm việc công ty có phải trả tôi số tiền đền bù 3 tháng hợp đồng như đã nói không? (Tuấn Đạt - Hải Phòng)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Vì anh(chị) có cung cấp thông tin giữa anh/chị và công ty có hợp đồng lao động. Nên chúng tôi xin trình bày các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động đối với người sử dụng lao động như sau:

Thứ nhất, các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật Lao động:

"1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật Lao Động năm 2012.2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.4. Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật Lao Động năm 2012.5. Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.6. Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.7. Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại khoản 3 Điều 125 của Bộ luật Lao Động năm 2012.9. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Lao Động năm 2012. 10. Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhật, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã."

Thứ hai, các trường hợp người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động:

"a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này."

Xuất phát từ những trường hợp nêu trên, nhận thấy việc công ty cho anh/chị nghỉ việc không hề nằm trong các trường hợp mà pháp luật cho phép. Do đó, việc công ty chấm dứt hợp đồng lao động đối với anh/chị là trái pháp luật.

Do đó, công ty có nghĩa vụ phải thực hiện một trong các trường hợp sau:

"1. Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.2. Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật Lao Động năm 2012.3. Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật Lao Động năm 2012, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.4. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước".

Vì anh/chị không muốn tiếp tục làm việc, cho nên khoản tiền bồi thường sẽ gồm:

- Tiền lương, tiền bảo hiểm xã hôi, bảo hiểm y tế trong những ngày anh/chị không được làm việc.

- Ít nhất 02 tháng tiền lương ghi trong hợp đồng lao động.

- Nếu anh/chị đã làm việc tại công ty thường xuyên từ 12 tháng trở lên thì sẽ được chi trả trợ cấp thôi việc là nửa tháng tiền lương tương ứng với mỗi năm đã làm việc tại công ty.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.