Sau khi ly hôn vẫn phải cùng trả nợ chung đã vay

Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó...

Hỏi: Các khoản nợ trong thời kỳ hôn nhân mà đến nay hai bạn vẫn chưa trả xong thì pháp luật vẫn xác định đó là nghĩa vụ chung của hai bạn. Mỗi người phải có nghĩa vụ thanh toán một nửa số nợ? (Ngô Bảo Long - Hà Nam)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Như vậy, với quy định nêu trên thì quyền sử dụng đất và ngôi nhà mà hai bạn xây dựng trong thời kỳ hôn nhân và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở được xác định là tài sản chung của vợ chồng.

Theo quy định tại khoản 6 Điều 27 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn là một trong những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Do đó, trong trường hợp hai bạn không thể thỏa thuận được về cách giải quyết vụ việc thì một trong hai bên đều có quyền nộp đơn khởi kiện ra tòa. Về nguyên tắc, nếu tài sản tranh chấp là bất động sản thì tòa án nơi có bất động sản đó có thẩm quyền giải quyết.

Về mặt pháp lý, sau khi ly hôn, hai bạn không còn là vợ chồng của nhau nữa nhưng những tài sản mà các bạn yêu cầu tòa án giải quyết và kể cả các khoản nợ được hình thành trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn được hiểu là tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng nên việc chia tài sản chung sau ly hôn cũng áp dụng tương tự các quy định của pháp luật như chia tài sản khi ly hôn. Cụ thể, theo Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình thì việc chia tài sản phải đảm bảo các nguyên tắc sau: "1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;d) T ài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết".

Như vậy, với các quy định trên, nếu ngôi nhà của bạn quá nhỏ, không thể chia được thì tòa án sẽ xem xét, đánh giá khả năng và nhu cầu của các bên để giao ngôi nhà đó cho một bên. Bên được nhận nhà phải có nghĩa vụ thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch. Giá trị nhà và đất được xác định theo giá thị trường tại thời điểm tòa án giải quyết vụ việc.

Đối với các khoản nợ trong thời kỳ hôn nhân mà đến nay hai bạn vẫn chưa trả xong thì pháp luật vẫn xác định đó là nghĩa vụ chung của hai bạn. Theo đó, mỗi người phải có nghĩa vụ thanh toán một nửa số nợ cho người cho vay, trừ trường hợp hai bạn và người đó có thỏa thuận khác.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.