Luật sư tư vấn, giải quyết tài sản khi ly hôn

Tư vấn giải quyết tài sản sau khi ly hôn...

Hỏi: Gia đình anh chị tôi đã kết hôn hơn 20 năm, hiện tại đã có hai con trai trên 18 tuổi và chưa có việc làm. Anh tôi ngoại tình và hiện tại có ý định ly hôn đơn phương chị tôi. Hiện tại anh chị có nhà riêng nhưng đất là do bố chị tôi (đã mất) mua và đứng tên chị tôi, hiện tại vẫn chưa làm sổ đỏ. Ngoài giấy xác nhận quyền sử dụng đất thì không còn giấy tờ gì chứng minh đất là do bố chị tôi mua.Vậy cho hỏi theo pháp luật thì việc phân chia tài sản sẽ như thế nào? Có chia đều cho cả anh chị và các con hay không? Và trách nhiệm với con cái ra sao? (Thu Hoài - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Anh chị của bạn có nhà riêng nhưng đất là do bố chị bạn mua cho (đã mất) và đứng tên chị bạn, hiện tại vẫn chưa làm sổ đỏ. Ngoài giấy xác nhận quyền sử dụng đất thì không còn giấy tờ gì chứng minh đất là do bố chị bạn mua. Ở đây chúng ta phải làm rõ vấn đề diện tích đất này có phải là tải sản chung của hai vợ chồng chị của bạn hay không?

Theo quy định của điều 33,tài sản chung được xác định như sau: "1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".

Theo quy định trên:Nếu diện tích đất này là do bố vợtặng riêng cho người vợ, có căn cứ để chứng minh điều đó vàhai vợ chồng chưa có thỏa thuận đây là tài sản chung thì diện tích đất này là tài sản riêng của người vợ. Vậy khi ly hôn, tài sản này vẫn được xác định là tài sảncủa người vợ.Nếu diện tích đất này được bố vợ tặng chung cho hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì tài sản này sẽ được giải quyết theo khoản 2, điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:"2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng".

Những tài sản chung kháccủa hai vợ chồng sẽ được giải quyết theo quy định trên ( nếu như hai bên không tự thỏa thuận được).Về vấn đề nuôi con, theo khoản 1, điều 81 thì cha mẹ vẫn có quyền chăm sóc và nuôi dưỡng, giáo dục con:"1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan."

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.