Hết thời hiệu khởi kiện thừa kế, giải quyết tranh chấp thế nào?

Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Hỏi: Hiện nay gia đình tôi có tranh chấp về việc chia tài sản nhà. Bố của tôi mất không để lại di chúc. Gia đình tôi có 03 căn nhà thuộc quyền sở hữu của bố mẹ. Khi bố em còn sống, bố và mẹ có thêm mua 02 căn nhà. 05 năm trước, mấy anh trai bỏ tiền sửa chữa lại 02 căn nhà đó và ở đến nay. Còn 01 căn còn lại, mấy anh trai tự xây mới. Gia đình tôi có 09 người con 05 trai, 04 gái. Nay, mấy chị gái bảo chia tài sản cho mẹ cho họ vì nay ai cũng có gia đình riêng. Vậy cho tôi hỏi luật sư, tài sản đó được chia như thế nào theo luật? (Vũ Hưng - Nam Định)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, như anh (chị) trình bày, cả 03 căn nhà đều thuộc quyền sở hữu của bố mẹ củaanh (chị). Có thể xác định rằng đây thuộc tài sản chung của bố và mẹ củaanh (chị)có trong thời kỳ hôn nhân. Tại khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:“Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.


Thứ hai,anh (chị)cần lưu ý rằng, chia tài sản thừa kế chỉ được thực hiện khi người để lại thừa kế mất. Trong trường hợp củaanh (chị), 03 căn nhà được xác định là tài sản chung của bố mẹ củaanh (chị). Vì vậy, trong trường hợp này chỉ được chia 01 nửa số tài sản của bố mẹ củaanh (chị).

Tại khoản 2 Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định:

"Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế".

Sau khi xác định được số di sản được chia thừa kế thì những người sau đây sẽ được hưởng thừa kế theo pháp luật là 09 người con của bố mẹ và mẹ bạn, tổng sẽ được chia nửa số tài sản đó cho 10 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất (09 người con và mẹ bạn) theo quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2005 về chia thừa kế theo pháp luật.

Thứ ba, tuy nhiên điểm cần lưu ý ở đây là thời hiệu khởi kiện thừa kế. Tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 có quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:

“Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

Vậy, trong trường hợp của củaanh (chị), bố củaanh (chị)đã mất 20 năm thì đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế.

Thứ tư, để giải quyết được vấn đề củaanh (chị), thì trường hợp củaanh (chị)sẽ được xử lý như sau:

10 người thừa kế sẽ có quyền thực hiện thủ tục theo quy định của pháp luật để chia di sản thừa kế do bố bạn để lại. Các cách thức tiến hành:

- Cách 1: Họp mặt những đồng thừa kế để thỏa thuận các nội dung như: Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc; Cách thức phân chia di sản (Điều 681 Bộ luật Dân sự năm 2005). 10 người thừa kế (9 người con và mẹ bạn) có thể cùng nhau đến tổ chức công chứng trên địa bàn nơi có bất động sản để yêu cầu chia di sản thừa kế do bố bạn để lại. Tuy nhiên, để thực hiện theo cách này thì phải có sự đồng thuận của tất cả các đồng thừa kế.

- Cách 2: Khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung: theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004, trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết:

+ Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế (10 người thừa kế) thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

+ Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế (10 người thừa kế) không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

Để khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung thì các đồng thừa kế của bố củaanh (chị) phải có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc thừa nhận di sản do bố củaanh (chị)để lại chưa chia. Khi có văn bản xác nhận có chữ ký của tất cả các đồng thừa kế thì di sản là 01 nửa số tài sản chung của bố mẹ củaanh (chị)(tài sản chung là 03 căn nhà) do bố củaanh (chị)để lại chuyển thành tài sản chung của các thừa kế và tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

Như vậy, trong trường hợp của bạn thì mẹ củaanh (chị)sẽ đương nhiên có 1/2 tài sản (tổng tài sản chung của bố và mẹ là 03 căn nhà). Nếu như yêu cầu về chia phần di sản của bố củaanh (chị)trong trường hợp củaanh (chị)sẽ bị chia nhỏ cho 10 người. Vì vậy, cách tốt nhất ở đây, là mọi người nên cùng đạt tới thỏa thuận. Khi xảy ra tranh chấp khởi kiện ra tòa án để yêu cầu chia số tài sản chung này cũng sẽ mất một khoản phí tương đương với phần tài sản muốn chia theo quy định của pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.