Di chúc bị xé thì chia thừa kế như thế nào?

Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc

Hỏi: Mẹ tôi mất sớm không để lại di chúc, đến 10 năm sau thì bố tôi mất có để lại di chúc là chia đều cho 9 người con và đứa cháu đích tôn nhưng do em ruột của tôi giữ, nhưng do em tôi muốn giữ ngôi nhà của bố mẹ tôi để lại làm nhà tổ nên đã xé di chúc đi để tôi không được phân chia nhà, vậy thì khi tôi kiện ra Tòa án thì tôi có được lấy phần của tôi trong ngôi nhà đó không? (Nguyễn Thị Yến - Hải Phòng)
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Thị Mai Phương – Tổ tư vấn pháp luật thừa kế – Công ty Luật TNHH Everest – trả lời:

Tại Điều 666 Bộ luật dân sự 2005 có quy định như sau:

“Điều 666.Di chúc bị thất lạc, hư hại

1. Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.

2. Trong trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc thì di sản được chia theo di chúc.”

Theo thông tin anh/chị cung cấp, khi bố anh/chị mất có để lại di chúc, tuy nhiên, người em ruột của anh/chị đã xé bản di chúc đó. Vì vậy, trường hợp này sẽ được coi là không có di chúc theo quy định trên.

Trường hợp không có di chúc thì phần di sản thừa kế của người mất để lại sẽ chia thừa kế theo pháp luật. Cụ thể, tại Điều 676 Bộ luật dân sự quy định:

“Điều 676.Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) …

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.”

Do thông tin anh/chị cung cấp không rõ ràng về thời điểm bố, mẹ chị mất. Vì vậy, cần phải xác định trường hợp này còn trong thời hiệu khởi kiện về thừa kế hay không, tại Điều 645 Bộ luật dân sự quy định:Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

Trường hợp của anh/chị nếu còn trong thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định trên thì anh/chị có quyền yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế trong trường hợp những người thừa kế không thể thỏa thuận phân chia.

Trường hợp đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế, thì theo quy định tại Mục 2.4 Phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP:

“2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

A. … Sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kếkhông có tranh chấp về hàng thừa kếvàđều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chiathì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:



A.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

A.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.”

Như vậy, anh/chị có thể đối chiếu với các quy định trên để giải quyết trường hợp của mình.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.