Công ty không trả sổ bảo hiểm xã hội, phải làm gì?

Khoản 2 Điều 18 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định quyền của người lao động: "Được cấp và quản lý sổ bảo hiểm xã hội".

Hỏi: Tôi làm việc tại một công ty xuất nhập khẩu. Do không phù hợp nên tôi đã xin nghỉ việc mà không báo trước. Hiện tại công ty vẫn đang giữ sổ bảo hiểm xã hội của tôi không trả. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi phải làm sao để lấy lại sổ bảo hiểm xã hội? (Hằng Châu - Thanh Hóa)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Khoản 2 Điều 18 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định quyền của người lao động: "Được cấp và quản lý sổ bảo hiểm xã hội".

Bên cạnh đó trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động bao gồm (Khoản 2, Khoản 3 Điều 47 Bộ luật Lao động 2012): "2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày. 3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động".

Như vậy Bộ luật Lao động không quy định cụ thể trong trường hợp nào thì người lao động mới được trả sổ bảo hiểm xã hội. Vì vậy, kể cả trong trường hợp người lao động nghỉ việc do vi phạm hợp đồng, bị sa thải hay tự ý nghỉ ngang không thông báo trước cho công ty thì công ty vẫn phải có trách nhiệm trả sổ bảo hiểm xã hội và các giấy tờ khác mà công ty đã giữ lại của bạn.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.