Có bắt buộc phải trả sổ bảo hiểm xã hội?

Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động

Hỏi: Em làm việc cho một công ty TNHH một thành viên nhà nước từ năm 2006 đến năm 2015. Từ khi mới vào làm năm 2006 chỉ ký một lần hợp đồng có thời hạn là 3 năm, sau khi hết thời hạn hợp đồng,em không thấy có đưa ký bất kỳ hợp đồng nào khác, nhưng chỉ có quyết định tăng bậc nghề theo chế độ công ty 3 năm 1 lần và em vẫn tiếp tục làm đến năm 2015. Vì Công ty liên tục nợ lương từ 3-5 tháng và cắt giảm các chế độ nên không đảm bảo cuộc sống của mình, giữa năm 2015 em có làm đơn xin nghỉ việc tại công ty đó theo đúng luật lao động báo trước 45 ngày mới nghỉ. Sau khi nghỉ được 2 tháng, Công ty chỉ trả lai hồ sơ xin việc và quyết định đồng ý cho em nghỉ việc và đã thanh toán dần dần hết lương đầy đủ cho em, nhưng riêng sổ bảo hiểm thì Công ty vẫn chưa trả em. Có lần em gọi điện thoại cho phòng nhân sự hỏi về tình hình sổ bảo hiểm của em thì được trả lời là, công ty chưa chốt được sổ bảo hiểm. Theo một số nguồn tin em được biết công ty mới đóng bảo hiểm đến năm 2010-2011 gì đó, và vẫn còn nợ tiền bảo hiểm từ đó đến 2015. Trong khi đó, tháng nào công ty cũng trừ và thu tiền bảo hiềm hàng tháng của em mỗi khi chuyển lương và đã thu đây đủ đến giữa năm 2015 khi em nghỉ việc. Vậy em muốn hỏi: Em đóng đầy đủ phần bảo hiểm của mình là đúng, còn việc công ty nợ hay chưa đóng cho cơ quan bảo hiểm là việc và trách nhiệm của công ty, nếu lấy lý do đó mà không chốt sổ bảo hiểm cho em là công ty đang làm sai pháp luật có phải không? Đến bây giờ tháng 3/2016 em vẫn chưa nhận được bất kỳ thông tin nào thông báo trả sổ cho em thì em phải gửi đơn khiếu nại hay làm các bước gì thì công ty mới chốt và trả sổ cho em? (Nguyễn Thảo - Hải Phòng)


>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Tâm - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Vấn đề thứ nhất: Công ty không đóng bảo hiểm xã hội cho anh (chị) nên không thể chốt và trả sổ bảo hiểm xã hội cho anh (chị) khi chấm dứt hợp đồng lao động là sai quy định của pháp luật. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định: "Điều 21. Trách nhiệm của người sử dụng lao động: 1. Lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ bảo hiểm xã hội, đóng, hưởng bảo hiểm xã hội. 2. Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 86 và hằng tháng trích từ tiền lương của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội...".

Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: "Điều 47. Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động ... 3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động...".

Vấn đề thứ hai: Việc công ty không chốt sổ bảo hiểm xã hội cho anh (chị), trước hết anh (chị) có thể làm đơn khiếu nại gửi nên ban lãnh đạo công ty. Trong trường hợp công ty không giải quyết anh (chị) có thể gửi đơn khiếu nại đến phòng lao động thương binh và xã hội. Ngoài ra, nếu vẫn không thể giải quyết được hoặc anh (chị) không muốn thực hiện qua các bước nêu trên anh (chị) có thể làm đơn kiện ra Tòa mà không cần qua hòa giải của hòa giải viên lao động theo quy định của Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012: "Điều 201. Trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp lao động cá nhân của hòa giải viên lao động: 1. Tranh chấp lao động cá nhân phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động trước khi yêu cầu tòa án giải quyết, trừ các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải: ... d) Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội...".

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.