Chồng bị lẫn, vợ có quyền được viết di chúc không?

Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.

Hỏi: Ông bà ngoại tôi có căn nhà từ lúc mới lấy nhau cho đến nay đã có 12 người con, nhưng chỉ mình bà tôi đứng tên chủ quyền. Hiện nay ông tôi đã già và bị lẫn không nhớ được gì hết. Bà tôi đang có ý định bán nhà nhưng các con không đồng ý nên bà có ý định viết di chúc để lại toàn bộ tài sản là căn nhà cho người con trai út ( con trai út này đang bị nghi ngờ là con riêng của bà tôi chứ không phải con ruột của bà và ông tôi ).Vậyxin cho tôi biết bà tôi có tự ý bán đượcnhà hoặc lập di chúc để lại cho con trai út của bà được khôngtrong khi ông tôi vẫn còn sống ? Và các con có quyền khiếu kiện để chia tài sản đó không? Và giả sửnhư trong trường hợp ông tôi mất trong thời điểm này thì bà có đượctoàn quyền quyết định về tài sản đó khônghay phải cần có sự đồng ý của tất cả các người con bà tôi mới bán được? (Tố Trinh - Bình Dương)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

1/.Điều 33Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng".

Như vậy, căn nhà này là do cả ông và bà bạn tạo lập được khi sống chung trong thời kỳ hôn nhân, đó mặc nhiên là tài sản chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật. Theo như thông tin bạn cung cấp, có thể thấyông bà bạn đã nhiều tuổi, căn nhà có được trước năm 2016nên chúng ta sẽ áp dụng luật cũ để giải quyết trong thời điểm này. Tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CPngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình cũng hướng dẫn cụ thể tại Điều 5: Các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng khi đăng ký quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng …bao gồm: nhà ở, quyền sử dụng đất và những tài sản khác mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu. Việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng phải ghi tên của cả vợ và chồng.Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng đã đăng ký quyền sở hữu trước ngày Nghị định này có hiệu lực mà chỉ ghi tên của một bên vợ hoặc chồng, thì vợ chồng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản đó để ghi tên của cả vợ và chồng. Nếu vợ chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản, tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng.

Như vậy, 2 căn nhà mà ông và bà bạn đượcbạn tạo lập được trong trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Việc chỉ có mình người vợ đứng tên trên sổ đỏ không làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu của người chồng.Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định:

"1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận.2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:a) Bất động sản;b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình".

Theo đó, bà bạn muốn viết di chúc để lại tài sản cho cậu út nhà bạn thì chỉ có thể để lại 1/2 căn nhà này, chứ không được định đoạt cả căn nhà nếu như không có sự đồng ý của ông bạn. Bà bạn cũng không thể bán đi căn nhà này nếu như không có sự đồng ý bằng văn bản với ông của bạn.

2/ Ngôi nhà này là sở hữu chung của ông bà bạn nên các con, cháu không có quyền và nghĩa vụ gì liên quan đến tài sản này, vì thế, không thể khiếu kiện đòi chia tài sản. Việc chia tài sản chỉ có thể diễn ra nếu ông bà của bạn mất mà thôi.

Khoản 2 Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình quy định như sau:

"1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế".

Theo đó, nếu ông bạn mà chết đi và không để lại di chúc thì phần tài sản chung của ông bà sẽ được chia đôi, bà của bạn sẽ có quyền định đoạt 1/2 số tài sản đó,phần còn lại của ông bạn sẽ được chia theo pháp luật về thừa kế. Điểm a Khoản 1Điều 676 BLDS 2005 quy định như sau:

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết".

Như vậy, 1/2 tài sản của ông bạn sẽ được chia đều cho bà bạn và 12 người con theo quy định pháp luật. Khi này các con mới có quyền được chia phần tài sản thuộc về mình.

Tóm lại, nếu ông bạn mất mà không để lại di chúc bà của bạn chỉ có quyền định đoạt 1/2 + 1/13 số tài sản của mình mà thôi chứ không có quyền định đoạt cả căn nhà.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.