Xử lý như thế nào khi có yếu tố lừa dối trong giao kết hợp đồng thuê đất?

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

Hỏi: Năm 2013 tôi có ký một hợp đồng thuê đất viết tay không có công chứng với thời hạn 3 năm, sau đó tôi đã đầu tư dựng quán để bán hàng. Tôi ở được 2 năm 4 tháng thì có một công ty làm đường đến yêu cầu phải di rời vì khu đất tôi đang ở thuộc khu vực giải phóng mặt bằng đã bị thu hồi và chủ đất đã nhận tiền đền bù từ năm 2010. Vì là người ở xa tới nên trước đó tôi hoàn toàn không biết về thông tin này và vì bên cho thuê luôn khẳng định là đất chưa đền bù. Tôi đã thanh toán tiền thuê đủ hai năm và đã xây dựng cơ sở để bán hàng. Vậy tôi xin hỏi luật sư trong trường hợp này tôi có thể kiện bên cho thuê hành vi vi phạm hợp đồng dân sựlừa đảo không?(Vũ Hải Hà - Hà Nội).

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Hoài Thương - Tổ tư vấn pháp luật hợp đồng của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Vào năm 2013 là thời điểm Luật đất đai 2003 có hiệu lực có quy định về hợp đồng thuê đất phải được công chứng, theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 128 Luật đất đai 2003. Tuy nhiên thực tế hai bên không đem hợp đồng đi công chứng, như vậy hợp đồng thuê vi phạm pháp luật về hình thức. Theo Điều 134 Bộ luật dân sự 2005, hợp đồng không tuân thủ quy định về hình thức là vô hiệu :

Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.

Ngoài ra, bạn cho biết bên cho thuê đã nhận tiền bồi thường từ năm 2010 nhưng khi ký hợp đồng thuê lại không nhắc tới chuyện này với bạn. Như vậy, có dấu hiệu của sự lừa dối trong khi hai bên thực hiện giao dịch. Theo quy định tại Điều 132 Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng do bị lừa dối là vô hiệu:

Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.

Hậu quả pháp lý đối với hợp đồng vô hiệu được quy định tại Khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự:

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.

Căn cứ theo quy định trên, bên cho thuê phải trả lại số tiền thuê 6 tháng mà bạn không được tiếp tục sử dụng đất theo hợp đồng thuê là 3 năm.

Tuy nhiên, thời hiệu để yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu đối với trường hợp của bạn là 2 năm kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực. Bạn đã giao kết hợp đồng từ năm 2013 và tính đến thời điểm hiện tại là gân 2 năm. Do đó, bạn cần mau chóng gửi đơn yêu cầu tới nơi có bất động sản yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự với 2 lý do trên.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.