Tư vấn về thừa kế đất đai có tên của chủ hộ gia đình

Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung...

Hỏi: Hiện tại nhà nội em có 1 miếng đất 200m, sổ đỏ là hộ gia đình đứng tên bà nội, nhà ông bà nội có 2 người con trai mà mất, ông nội cũng mất, sổ hộ khẩu chỉ có tên một mình bà nội. Vậy giờ miếng đất đó bà nội có được toàn quyền quyết định không? (Hoàng Hải - Thanh Hóa)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Bùi Ánh Vân - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everesst - trả lời:

Thứ nhất: Mảnh đất trên là tài sản chung của hộ gia đình

Căn cứ điều 108Bộ luật dân sự2005 quy định:
“Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ.”

Như vậy, đất được cấp cho hộ gia đình thì thuộc quyền sở hữu chung của tất cả mọi thành viên trong hộ gia đình. Việc xác định những người có quyền đối với quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình được căn cứ vào sổ hộ khẩu tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Tức là, tại thời điểm được giao đất, sổ hộ khẩu hộ gia đình của bà bạn gồm những ai thì những người đó đều có quyền quyết định đối với mảnh đất trên (vì bạn không nói rõ bà bạn có bao nhiêu người con nên chúng tôi chưa thể xác định chính xác những người có quyền quyết định đối với mảnh đất trên.)

Tại Điều 109 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình:

“1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thoả thuận.

2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.”


Thứ hai: Mảnh đất trên là tài sản chung của vợ chồng (ông nội-bà nội)

Theo quy định của Luật hôn nhân gia đình 2014

“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”


Trường hợp ông nội bạn đã mất thì mảnh đất trên một nữa là của ông nội bạn nữa còn lại là của bà nội bạn. Ông nội bạn đã mất nếu có để lại di chúc thì một nữa phần đất trên được chia theo di chúc. Nếu ông nội bạn không để lại di chúc thì một nữa mảnh đất trên được chia theo pháp luật.

Việc chia thừa kế theo pháp luật sẽ ưu tiên chia thừa kế theo hàng. Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người đã chết.

Như vậy, phần di sản của ông nội bạn, bà nội bạn cùng các con sẽ được hưởng theo quy định của pháp luật.

Thứ ba: Mảnh đất trên là tài sản riêng của bà nội bạn.

Nếu mảnh đất trên là tài sản riêng của bà nội bạn, thì bà nội bạn có toàn quyền quyết định đối với mảnh đất.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.