Tư vấn về thu hồi đất sử dụng không hiệu quả

Điều 32 Luật Đất đai năm 2003 quy định, việc quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có quyết định thu hồi đất đó.

Hỏi: Gia đình ông Quang được giao 0,8 ha đất để trồng lúa nước nhưng do hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ ông ốm nặng không có khả năng lao động, hai con còn nhỏ đang đi học nên hơn một năm nay ông Quang phải lên thành phố tìm việc làm để nuôi gia đình. Trong thời gian đó, diện tích đất được giao cho gia đình ông Quang phải bỏ hoang không canh tác. Vì vậy, trên cơ sở kiểm tra thực tế việc sử dụng đất, Ủy ban nhân dân xã nơi gia đình ông Quang sống đã quyết định giao diện tích đất nói trên cho hộ bà Chi với lý do gia đình ông Quang không sử dụng đất trong khi gia đình bà Chi lại đang thiếu đất canh tác. Khi về thăm nhà, biết sự việc nên ông Quang đã đến Uỷ ban nhân dân xã gặp cán bộ địa chính và Chủ tịch xã để khiếu nại việc xã thu hồi đất của gia đình ông. Đề nghị Luật sư tư vấn, quyết định giao đất của Ủy ban nhân xã cho bà Chi có đúng luật hay không? (Minh Trang - Thanh Hóa)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phùng Thị Huyền - Tổ tư vấn pháp luật đất đai Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Trong trường hợp này, ông Quang đã thực hiện việc khiếu nại đối với việc Uỷ ban nhân dân xã (sau đấy viết tắt là UBND) giao đất đang thuộc quyền sử dụng của ông cho người khác, nên theo quy định tại Điều 19 Luật Khiếu nại, tố cáo thì Chủ tịch UBND xã có trách nhiệm thụ lý đơn khiếu nại của ông Quang và căn cứ vào quy định về thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại và quy định pháp luật đất đai để giải quyết khiếu nại lần đầu của ông Quang.

Về việc UBND xã thu hồi đất đối với gia đình ông Quang: Một trong những nguyên tắc Luật Đất đai năm 2003 quy định đối với việc sử dụng đất là việc sử dụng đất phải tiết kiệm, có hiệu quả và đúng mục đích sử dụng. Trong trường hợp người sử dụng đất sử dụng không theo đúng yêu cầu của Nhà nước thì Nhà nước có thể thu hồi đất. Điều 38 Luật Đất đai năm 2003 quy định về các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, trong đó có trường hợp: sử dụng đất không có hiệu quả (khoản 3), đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong 12 tháng liền (khoản 11)... Căn cứ quy định nói trên, có thể thấy trong trường hợp này gia đình ông Quang đã bỏ hoang phí đất, sử dụng đất không có hiệu quả, không tiến hành canh tác trên diện tích đất được giao trong thời gian dài (hơn 1 năm). Do đó, cơ quan quản lý nhà nước về đất đai hoàn toàn có cơ sở thực tế để áp dụng việc thu hồi đất của gia đình ông Quang theo quy định tại khoản 3, khoản 11 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003.

Tuy nhiên, Điều 32 Luật Đất đai năm 2003 quy định, việc quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có quyết định thu hồi đất đó. Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật Đất đai năm 2003, thì thẩm quyền thu hồi đất trong trường hợp này là UBND cấp huyện chứ không phải là UBND cấp xã. UBND cấp xã chỉ quản lý đất đó sau khi đất đó đã được thu hồi (khoản 5 Điều 36 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP quy định, Nhà nước thu hồi đất đối với trường hợp quy định tại các khoản 2 đến khoản 12 Điều 38 Luật Đất đai 2003 và giao cho UBND xã quản lý nếu đất đã thu hồi thuộc khu vực nông thôn, giao cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý nếu đất đã thu hồi thuộc khu vực đô thị và khu vực có quy hoạch phát triển đô thị).

Như vậy, việc UBND xã quyết định giao diện tích đất đang thuộc quyền sử dụng của gia đình ông Quang cho gia đình bà Chi trong khi chưa có quyết định thu hồi đất của UBND huyện là việc làm sai nguyên tắc. Việc khiếu nại của ông Quang về quyết định hành chính của UBND xã là có căn cứ pháp luật.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật đất đai mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.