Tư vấn thừa kế quyền sử dụng đất

Trường hợp người chết không để lại di chúc, di sản thừa kế được chia theo pháp luật, hàng thừa kế được xá định theo Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005

Hỏi: Ông, bà Nội tôi có 8 người con trai và gái. Ông Bà tôi đã đã về với tổ tiên cách đây nhiều năm, Ông Nội tôi mất trước Bà tôi, Bà Nội tôi ở với người con trai thứ hai và mất tại đất này. Phần tổ chức hương khói và lo giỗ tết cho các cụ được giao cho người con trai thứ hai (vì người con trai cả ở xa), cách đây ba năm người con trai cả của cụ qua đời, cách đây một năm người con trai thứ hai (tức là người đang đứng ra lo thờ cúng các cụ) đột ngột qua đời. Sau cái chết của người con thứ hai thì gia đình tôi bắt đầu có nhiều vấn đề có thể nói là nổi loạn, không còn gia phong đạo lý gia đình, chỉ coi trọng duy nhất một vấn đề là đất đai và vấn đề này chỉ có ở gia đình người con thứ hai hiện nay đang sống trên phần đất của Ông bà Nội tôi. Gia đình này nói rằng tất cả đất đai, nhà cửa của Ông Nội tôi là của nhà này, vì đất đai đã được mang tên người con trai thứ hai đã chết. Nay tôi xin được hỏi như sau: việc tấm bìa đỏ được lập khi các người con trai và con gái của Ông bà Nội tôi không ai được biết trừ việc người con trai thứ hai tức là người được lập bìa đỏ thừa hưởng toàn bộ gia sản thì có được công nhận là đúng theo quy định của pháp luật không? (Thu Thủy - Ninh Bình)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Trường hợp thứ nhất: Ông bà bạn chết có để lại di chúc và để toàn bộ phần di sản của mình cho người con trai thứ hai. Di chúc phải được mở khi bà bạn chết để cho tất cả thành viên đều biết về ý chí, nguyện vọng của bà bạn. Nếu như vậy thì người con thứ hai có thể nhận di sản và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Trường hợp thứ hai: Ông bà bạn chết không có di chúc do đó di sản để lại sẽ được chia theo quy định của pháp luật.

Điều 674 quy định: "Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định".

Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 quy định về người thừa kế theo pháp luật

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nôi, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chúruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận dí sản".

Theo quy định pháp luật thì di sản của ông bà bạn là quyền sử dụng đất sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất của họ bao gồm 8 người con. Người con trai cả và người con trai thứ hai đã chết thì phần thừa kế của họ được nhận sẽ thuộc về gia đình họ.

Như vậy, việc người con trai thứ hai đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất không theo di chúc và những thành viên còn lại trong gia đình không biết là trái pháp luật. Những người con còn lại có thể yêu cầu chia lại di sản thừa kế.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.