Tư vấn thủ tục yêu cầu không nhận con

Nếu thấy việc anh không muốn nhận con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư pháp – hộ tịch ghi nội dung vào Sổ hộ tịch, cùng anh, ghi rõ họ tên vào Sổ hộ tịch; Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ký cấp cho mỗi bên 01 bản chính trích lục hộ tịch.

Hỏi: Hiện nay, tôi kết hôn với vợ tôi nhiều năm. Do mắc bệnh sinh lý nên tôi không có khả năng có con được nữa, đã có giấy xác nhận của bệnh viện. Nhưng cách đây một năm, vợ tôi lại bảo với tôi là cô ấy có thai, đứa bé hiện nay được 3 tháng tuổi. Khi biết vợ có thai tôi đã rất sốc, cũng thấy vui mừng tưởng đâu mình vẫn có thể có con. Nhưng sau đó tôi mới biết, đứa trẻ này không phải của tôi, mà của người yêu cũ của vợ tôi (vợ tôi đã thừa nhận). Và phía bên người yêu cũ của vợ tôi cũng có ý định muốn nhận lại con, do vợ anh ta không có khả năng sinh con. Vậy luật sư cho tôi hỏi, tôi có thể không nhận đứa bé này là con của mình được không? Thủ tục như thế nào? (Phương Trang - Hà Nội)
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật gia Đào Thị Thu Hường - Tổ Tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Theo như thông tin anh cung cấp, đứa bé không phải là con của anh, nhưng anh và vợ anh đã kết hôn với nhau, đứa bé được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân thì về nguyên tắc, đương nhiên sẽ trở thành con chung của hai vợ chồng anh (căn cứ theo Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Tuy nhiên nếu như anh có giấy tờ chứng minh đứa bé đó không phải là con của anh như giấy xét nghiệm ADN, anh vẫn có thể không nhận đứa bé đó là con nhưng anh phải ra Ủy ban nhân dân xã hoặc nộp đơn lên Tòa án để yêu cầu không nhận đứa bé là con của mình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình:

Tại khoản 2 Điều 89 quy định: "2. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình".

"Điều 101. Thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con 1. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp. 2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này".

Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

"Điều 102. Người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con

1. Cha, mẹ, con đã thành niên không bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký hộ tịch xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 101 của Luật này.

2. Cha, mẹ, con, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này.

3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này: a) Cha, mẹ, con, người giám hộ; b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; d) Hội liên hiệp phụ nữ.
Dẫn chiếu đến khoản 1 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định: "1. Cơ quan đăng ký hộ tịch là Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã), Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính tương đương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp huyện), Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là Cơ quan đại diện)".

Như vậy, anh có thể không nhận đứa bé đó là con của mình được. Theo như thông tin mà anh cung cấp thì anh không muốn nhận đứa bé đó là con của mình, còn người bố thực sự của đứa bé lại muốn nhận con của mình. Hai bên không có tranh chấp về việc nhận con. Tuy nhiên, vấn đề của anh là không muốn xác nhận đứa bé là con của mình, theo đó, anh phải nộp đơn yêu cầu Tòa án xin xác nhận không phải là con mình. Anh làm hồ sơ nộp cho Tòa án nơi anh cư trú hoặc làm việc yêu cầu Tòa án xem xét để công nhận việc không nhận đứa bé là con của anh. Tòa án xem xét đơn, nếu có đủ căn cứ chứng minh anh không phải là cha đứa bé thì Tòa án ra quyết định công nhận việc không nhận con của anh.

Sau khi nhận được quyết định của Tòa án, anh nên đến Ủy ban nhân dân xã nơi anh cư trú để yêu cầu không nhận con, chấm dứt mối quan hệ cha con trên Giấy khai sinh của đứa bé, nếu đã đăng ký khai sinh và ghi vào Sổ hộ tịch. Hồ sơ yêu cầu không nhận con bao gồm:

– Bản chính một trong các giấy tờ là hộ chiếu, chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân hoặc giấy tờ khác có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn giá trị sử dụng (sau đây gọi là giấy tờ tùy thân) để chứng minh về nhân thân. Trong giai đoạn chuyển tiếp, người yêu cầu đăng ký hộ tịch phải xuất trình giấy tờ chứng minh nơi cư trú.

– Tờ khai không nhận cha con theo mẫu quy định;

– Giấy tờ, tài liệu chứng minh quan hệ cha – con; trường hợp này anh phải đưa ra những giấy tờ chứng minh đứa bé không phải là con mình, trong đó có quyết định của Tòa án;

Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra hồ sơ, niêm yết việc anh không nhận con tại trụ sở Ủy ban nhân dân và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã quyết định. Trường hợp phải xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 12 ngày làm việc.

Nếu thấy việc anh không muốn nhận con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư pháp – hộ tịch ghi nội dung vào Sổ hộ tịch, cùng anh, ghi rõ họ tên vào Sổ hộ tịch; Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ký cấp cho mỗi bên 01 bản chính trích lục hộ tịch.
Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.