Tranh chấp về lối đi đã chuyển nhượng giữa các bất động sản liền kề

Hợp đồng chuyển nhượng, tăng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực.

Hỏi: Vào năm 1977 ông ngoại tôi có mua lôi đi vào vườn của hàng xóm nhưng ko làm giấy tờ gì. Sau này ông ngoại tôi chết và ông chủ đất ông ngoại tôi mua cũng chết, và lối đi cho con cháu của ông tôi vẫn đi từ đó đến nay. Khoảng đầu năm 2015 con của ông chủ đất đòi rào ko cho đi nữa với lý do là ông ấy đã làm sổ đỏ đứng tên luôn phân đường đó, xin hỏi ông ta làm như vậy có đúng ko ,và cán bộ đi chính đo đạc luôn phần lối đi của chúng tôi như vậy có đúng ko. giấy chứng nhận của ông ta vào năm 2002. Nay xảy ra tranh chấp với lối đi đó thì giải quyết như thế nào? (Bình An - Bắc Giang)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lê Thị Hồng Sơn - Tổ tư vấn pháp luật Bất Động Sản của Công ty Luật Everest - Trả lời:

Trường hợp của bạn theo đúng quy định của pháp luật thì ông ngoại bạn và người chủ cũ cần phải có hợp đồng chuyển nhượng lối đi đó bằng văn bản và có công chứng hoặc chứng thực, quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 167 Bộ Luật đất đai năm 2013:

"3.Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:

a) Hợp đồng chuyển nhượng, tăng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực".

Và theo Khoản 2 Điều 122 Bộ luật đất đai năm 2013 thì hình thức hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lối đi đó của ông ngoại bạn và người chủ củ bị sai, nên giao dịch dân sự giữa ông bạn và người chủ cũ bị vô hiệu.

Trong trường hợp này, chúng tôi tư vấn cho bạn hướng đi sau:

"Trường hợp 1: Bạn và con ông chủ đất thỏa thuận mua lại lối đi đó.

Bạn và con của ông chủ đất sẽ ngồi lại thỏa thuận với nhau để bạn mua lại lối đi đó, và làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó bằng văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Mời bạn tham khảo bài viết dưới đây để tiến hành thủ tục chuyển nhượng theo quy định của pháp luật, tránh tranh chấp sau này:

Trường hợp 2: Phần đất đang tranh chấp là thuộc sở hữu của con ông chủ đất, mà lô đất của gia đình bạn lại bị bao bọc bởi các bất động sản khác. Lối đi đang tranh chấp là lối đi duy nhất dẫn ra nhà. Thì Điều 273 Bộ luật dân sự 2005 có quy định như sau: “ Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thoả thuận khác.

Như vậy, theo quy định này, bạn có quyền yêu cầu con ông chủ đất dành cho gia đình bạn một lối đi dẫn ra lô đất của gia đình bạn. Người con ông chủ đất có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó của bạn. Về diện tích lối đi cũng như việc đền bù sẽ do hai gia đình tự thỏa thuận.

Trường hợp 3: Nếu không thuộc hai trường hợp trên thì bạn có thể tổng hợp các giấy tờ địa chính của nhà bạn liên quan đến lối đi đó trong những năm nay, nộp lên Ủy Ban nhân dân xã,phường, thị trấn yêu cầu giải quyết".

Nếu người chủ mới không đồng ý thì có thể yêu cầu hòa giải tại UBND. Nếu hòa giải không thành, có thể yêu cầu Tòa án giải quyết .

Tuy nhiên, việc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết có các thủ tục hành chính tương đối phức tạp, chúng tôi có lời khuyên đến với bạn là nên cố gằng giải quyết tranh chấp này bằng biện pháp thỏa thuận, hòa giải để tránh các thủ tục tố tụng phức tạp đối với lối đi này.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Bất Động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.