Tôi đánh người ta, tôi phạm tội gì?

Cần phải xem xét xem trong trường hợp, người bị hại có lời lẽ xúc phạm gia đình của người phạm tội, nên khi thực hiện hành vi, người phạm tội có bị kích động về tinh thần hay không.

Hỏi: Có người thách thức, lăng mạ và dùng lời lẽ thô tục xúc phạm gia đình tôi nhiều lần. Tôi đã đánh người ta bị chảy máu đầu, gãy 2 cái răng và khâu một vài mũi ngay miệng bằng mũ bảo hiểm. Tôi có bằng chứng là các tin nhắn của người đó. Vậy tôi có phạm tội gì không? (Lê Hòa - Bình Dương)

c

>>>Luật sư tư vấnpháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lương Thị Anh Thư -Công ty LuậtTNHH Everest - trả lời:

Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy địnhnhư sau:

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;e) Có tổ chức;g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.” (Điều 104 quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ củangười khác)

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáutháng đếnhai năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:a) Đối với nhiều người;b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác.” (Điều 105 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định vềtội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh)

Như vậy, cần phải xem xét xem trường hợp của anh (chị), người bị hại có lời lẽ xúc phạm gia đình anh (chị), nên khi đánh người anh (chị) có bị kích động về tinh thần hay không. Cũng cần thiết phải giám định tỉ lệ thương tật của người bị hại là bao nhiêu phần trăm. Tùy theo đó sẽ áp dụng hai điều luật 104 hoặc 105 của Bộ luật Hình sự hiện hành.

Ngoài ra, cũng xin cung cấp thêm, với phương tiện gây án là mũ bảo hiểm thì căn cứ theo các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác thì đó không phải là hung khí nguy hiểm.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.