Thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành

Hiện nay, vấn đề thừa kế và chia di sản thừa kế còn gặp nhiều mẫu thuẫn và khó khăn trong giải quyết, do sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế từ phía người dân. Bài tư vấn dưới đây sẽ giải đáp một số vấn đề về thừa kế theo quy định của pháp luật.

Hỏi: Đề nghị Luật sư tư vấn, bố tôi qua đời thì có được lập di chúc ủy quyền chia tài sản cho mẹ kế không? Theo phân chia tài sản thì con gái con trai có được chia đều tài sản, đất đai để lại như nhau không (tài sản sở hửu của bố để lại) và con gái, con trai con đời trước đời sau có được như nhau không? Vì bố tôi có đến 3 đời vợ 5 người con 3 trai 2 gái và còn mỗi người mẹ còn sống. Việc thực hiện di chúc như thế nào là đúng, di chúc như thế nào là hợp lệ đúng pháp luật bởi vì bố tôi hiện nay đang bệnh tai biến nằm 1 chỗ khó thực hiện được di chúc? (Hoàng Nga - Hải Dương)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Căn cứ vào quy định của pháp luật dân sự năm 2005 thì cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Do vậy mà bố
anh (chị)có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho bất kì ai, hơn thế nữa, mẹ kế củaanh (chị)nếu đang trong thời kỳ hôn nhân với bốanh (chị)thì cũng là hàng thừa kế thứ nhất, người được chia di sản thừa kế trong trường hợp bốanh (chị)không để lại di chúc.

Thứ hai, đối với yêu cầu tư vấn thứ hai của
anh (chị), thì chúng tôi xin trả lời như sau: Quy định của pháp luật dân sự đối với trường hợp chia thừa kế theo quy định của pháp luật thì không có sự phân biệt giữa con trai hay con gái, con đời trước hay đời sau. Việc chia thừa kế căn cứ vào hàng thừa kế, trong trường hợp người để lại di sản mất mà không để lại di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản thì di sản chia đều cho những người nằm trong hàng thừa kế thứ nhất, nếu hàng thừa kế thứ nhất không còn ai thì chia tiếp đến hàng thừa kế thứ hai. Hàng thừa kế thứ nhất ở đây bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Như vậy thì những người nằm trong cùng một hàng thừa kế thì được nhận phần di sản như nhau.

Thứ ba, đối với câu hỏi về di chúc hợp pháp. Ðiều 652 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về di chúc hợp pháp như sau:

"1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Ðiều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực".

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.