Thành viên hợp danh có được thành lập doanh nghiệp tư nhân?

Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.

Hỏi:Tôi là thành viên hợp danh của 1 công ty hợp danh chuyên sản xuất đồ gỗ. Sau nhiều năm tích lũy tôi có một số vốn khá lớn, vì vậy muốn thành lập một công ty riêng. Tôi có nghe bạn tôi nói đến loại hình doanh nghiệp tư nhân khá phù hợp. Đề nghị Luật sư tư vấn, tôi có được phép thành lập doanh nghiệp tư nhân hay không? (Tuấn Mạnh - Hải Phòng)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Khương Thị Thu Hà - Tổ tư vấn pháp luật doanh nghiệp Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 175 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
“1. Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.
2. Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
3. Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại.”

Như vậy, anh (chị) không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên trong trường hợp tất cả các thành viên hợp danh còn lại trong công ty đồng ý, anh (chị) vẫn có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật doanh nghiệp mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.