Quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản thừa kế

Quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản thừa kế được quy định tại Điều 639 và Điều 640 Bộ luật Dân sự năm 2005

Hỏi: Gia đình tôi có 5 anh chị em được mẹ tôi chia cho mỗi người một mảnh đất. Trong đó có chia riêng một mảnh được dùng làm nhà thờ có diện tích 76m2. Trong di chúc có viết “Riêng phần nhà, đất thuộc nhà thờ là của tôi và con trai tôi là Nguyễn Văn A có trách nhiệm trông nom thờ cúng tổ tiên”. Vậy theo phần di chúc như trên thì em tôi là Nguyễn Văn A được những quyền lợi gì liên quan đến phần nhà đất của nhà thờ? (Ngọc Hải - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Vì mẹ bạn trước khi mất có để lại di chúc nên giả sử đâylà di chúchợp pháp theo quy định của pháp luật dân sự (có chữ ký của mẹ bạn và mẹ bạn soạn thảo di chúc trong tình trạng minh mẫn, tỉnh táo), do đó mọi nghĩa vụ cũng như quyền lợi của những người thừa kế sẽ được tuân theo nội dung di chúc.

Trong di chúc có ghi là: “Riêng phần nhà, đất thuộc nhà thờ là của tôi và con trai tôi là Nguyễn Văn V có trách nhiệm trông nom thờ cúng tổ tiên.” Do vậy, trách nhiệm của anh V chỉ dừng lại ở việc trông nom và quản lý phần đất thuộc nhà thờ này chứ không có quyền chiếm hữu, định đoạt quyềnsử dụng mảnh đất này. Quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản được quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:

Điều 638.Người quản lý di sản

"1. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thoả thuận cử ra.

2. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.

3. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý".


Điều 639.Nghĩa vụ của người quản lý di sản

"1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đây:

a) Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

c) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

d) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

đ) Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế.

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 638 của Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đây:

a) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác;

b) Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

c) Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

d) Giao lại di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế".


Điều 640.Quyền của người quản lý di sản

"1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật này có các quyền sau đây:

a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 638 của Bộ luật này có các quyền sau đây:

a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thoả thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế".

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.