Quyền không chấp nhận huỷ bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Có hủy bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động được hay không còn phụ thuộc vào ý chí của bên còn lại.

Hỏi: Tôi là trưởng phòng nhân sự của công ty sản xuất bao bì Phương Thu. Tháng trước có một số công nhân thông báo sẽ chấm dứt hợp đồng với công ty sau 2 tháng nữa vì một số việc riêng. Nhưng, hiện nay họ lại thông báo đã giải quyết được việc riêng của mình và muốn tiếp tục công việc. Tuy nhiên, tôi đã tuyển đủ số công nhân để thay thế vị trí làm việc của họ. Đề nghị Luật sư tư vấn tôi không cho họ tiếp tục làm việc có được không? (Nguyễn Quân – Hà Nội)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198.
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198.

Luật gia Lưu Thị Ngọc Anh - Tổ tư vấn pháp luật lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 40 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về việc huỷ bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như sau: “Mỗi bên đều có quyền huỷ bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước khi hết thời hạn báo trước nhưng phải thông báo bằng văn bản và phải được bên kia đồng ý”.

Theo quy định tại điều này, trước khi hết thời hạn báo trước, bên đơn phương chấm dứt hợp đồng có quyền hủy bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bằng nhưng phải thông báo bằng văn bản và phải được bên kia đồng ý. Như vậy, có hủy bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động được hay không còn phụ thuộc vào ý chí của bên còn lại. Công ty anh có quyền không chấp nhận hủy bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động. Và việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vẫn diễn ra đúng theo thời hạn mà người lao động đã thông báo.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6218, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.