Quyền hưởng di sản thừa kế của con gái khi người mẹ mất

Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản thừa kế.

Hỏi: Bố mẹ tôi có 4 người con 3 trai, một gái. mẹ tôi đã mất và còn bố tôi , trước khi mất mẹ và bố tôi đã làm thủ tục tặng đất cho con gái đã làm xong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn 3 người trai mẹ tôi chua làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất . nhưng khi mẹ tôi mất người con gái bất hiếu với bố tôi không quân tâm tới bố tôi nữa vậy bố tôi có quyền huỷ giấy chứng nhân mà bố mẹ tôi đã tặng cho con gái không? (Tú Quyên - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Thứ nhất, về vấn đề tặng cho đất cho con gái.

Theo thông tin anh cung cấp, bố mẹ bạnđã hoàn thành thủ tục tặng cho và người con gái đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích mà bố mẹtặng cho. Trường hợp này, người con gái được xác định là chủ sở hữu của bất động sản nêu trên. Bố bạn không còn quyền đối với mảnh đất đó, do vậy không thể huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã tặng cho.

Về quyền của người con gái đối với phần đất còn lại.

Trường hợp phần đất còn lại là tài sản riêng của bố bạn thì bố bạn có toàn quyền định đoạt, có thể chia hoặc không chia cho con gái.

Trường hợp đó là tài sản chung của của bố mẹ bạn thì khi mẹ bạn mất vấn đề tài sản chung được xác định như sau:

Điều66 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về giải quyết tài sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết như sau:

"1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.

2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.

3. Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự".

Như vậy, khi mẹ bạn mất, tài sản chung của bố mẹ sẽ được chia đôi.

Nếu người mẹ để lại di chúc thì di sản thừa kế của mẹ bạn được chia theo di chúc. Nếu không có di chúc thì di sản thừa kế sẽ chia theo pháp luật.

Do thông tin bạn cung cấp không đầy đủ nên chúng tôi không rõ mẹ bạn có để lại di chúc hay không. Đối với phần di sản thừa kế của mẹ bạn, chúng tôi phân ra hai trường hợp.
- Trường hợp mẹ bạn mất có để lại di chúc: khi đó, di sản thừa kế sẽ được chia theo di chúc. Quyền của người con gái đối với di sản của mẹ bạn sẽ phụ thuộc vào nội dung di chúc.

- Trường hợp mẹ bạn mất không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì di sản thừa kế được chia theo pháp luật.

Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự như sau:

“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

Mặt khác, theo quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự, những người sau đây không được quyền hưởng di sản thừa kế:

a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Tóm lại, ngoài phần đất đã được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người con gái còn được chia phần đất còn lại khi:

+ Mẹ mất có di chúc và nội dung di chúc chỉ định được hưởng.

+ Mẹ mất không có di chúc và không thuộc một trong các trường hợp không được hưởng di sản thừa kế theo Điều 643 Bộ luật Dân sự 2005.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.