Quy định về hình phạt của tái phạm nguy hiểm

Điều 49 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về tái phạm nguy hiểm.

Hỏi: Sau khi chấp hành xong hình phạt 2 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. A mở cây xăng để kinh doanh xăng dầu. Khi lắp đặt các máy bơm xăng dầu, A đã cho gắn chip điện tử giả (đã được cài đặt sai số giảm lượng xăng bơm ra) để mỗi lít xăng dầu khách hàng chỉ thực tế được bơm 0,93 lít trong khi đồng hồ vẫn báo bơm đủ lít. Điều này làm cho khách hàng bị thiệt 1,000 đồng đến 1,200 đồng khi mua mỗi lít xăng dầu (tùy thời điểm giá cả tăng giảm khác nhau). A đã bị cơ quan quản lí thị trường xử phạt hành chính về hành vi gian lận này nhưng A vẫn tiếp tục vi phạm. Hành vi của A diễn ra được 6 tháng sau khi xử lí hành chính lại tiếp tục bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện, nên A bị khởi tố. Trong trường hợp trên A được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Giả sử B là nhân viên lắp máy được A thuê gắn chíp điện tử giả (đã được cài đặt theo ý muốn) nhưng vì tiền nên B vẫn làm theo yêu cầu của A thì B có phải chịu trách nhiệm hình sự không? (Duyên Ly - Lào Cai)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Lương Thị Anh Thư - Tổ tư vấn pháp luật Hình sự Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo điều 49 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định:

"1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:

a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;

b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý."

Theo quy định tại tiểu mục a mục 7.3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn trường hợp các tiền án của bị cáo đã được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” thì các tiền án đó không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với bị cáo.

Ví dụ: D là người đã có hai tiền án đều về tội chiếm đoạt tài sản (có thể đều cùng về tội trộm cắp tài sản, có thể về tội trộm cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Sau khi ra tù, chưa được xóa án tích D lại trộm cắp tài sản có giá trị dưới năm trăm ngàn đồng, thì trong trường hợp này hai tiền án về tội chiếm đoạt tài sản được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm “đã bị kết án về tội chiếm đoạt, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” để truy cứu trách nhiệm hình sự D theo khoản 1 Điều 138 của BLHS mà không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với D.

Đối chiếu với quy định trên, thì tiền án của A về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được xem xét là dấu hiệu cấu thành tội phạm "đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" để truy cứu trách nhiệm hình sự của A theo quy định tại Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự chứ không được tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Theo điều 162 Bộ luật Hình sự quy định như sau:

1. Người nào trong việc mua, bán mà cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

2. Phạm tội nhiều lần hoặc thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.

Căn cứ vào quy định này thì hành vi lắp thiết bị con chíp điện tử giả của anh B theo yêu cầu của anh A vì tiền là hành vi có vai trò giúp sức về mặt điều kiện vật chất nên trong việc này anh B có dấu hiệu là đồng phạm trong tội lừa dối khách hàng và phải chịu trách nhiệm về hành vi này. Trong trường hợp này nếu anh B không biết hành vi là cài chíp giả và không hưởng lợi từ số tiền cài con chíp này thì anh B mới không phải chịu trách nhiệm.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.