Phân chia tài sản thừa kế và quyền thừa kế tài sản theo luật?

Trường hợp người chết không để lại di chúc, di sản thừa kế được chia theo pháp luật, hàng thừa kế được xác định theo Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005

Hỏi: Ông S và bà X đều có con riêng và 4 người con chung: A,B,C,D. Và 1 căn nhà chung cấp 4. Ông S mất năm 1985. Người con A mất năm 1993. Bà X mất năm 2000. Người con B,C đi vượt biên và định cư nước ngoài.Người con D cũng định cư diện con cái bảo lãnh. Trên tờ khai thuế trước bạ là tên của vợ người A và hai đứa con chung của hai vợ chồng người A và bà X. Khai sau khi người A mất. Trước khi mất, bà X đã làm giấy tờ có công chứng tặng toàn bộ phần thừa kế cho người D. Căn nhà hiện tại được cho thuê và do con người D quản lý. Nhà chưa có sổ đỏvì không được cấp. Tôi muốn hỏi rằngvợ con người A cần làm gì để được phân chia quyền và tài sản trên? (Văn Hòa - Hải Dương)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo thông tin bạn cung cấp thì tài sản này được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, vì vậy theo điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì tài sản này được xác định là tài sản chung của ông S và bà X:

"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung."
Nếu khi chết ông S có để lại di chúc và di chúcnày hợp pháp thì chia dii sản thừa kếlà ngôi nhà theo di chúc. Nếu không có di chúc thì sẽ chia di sản thừa kế theo pháp luật. Vì ngôi nhà là tài sản chung do đó ngôi nhà sẽ được chia đềucho bà X và ông S. Phần di sản của ông sẽ được chia đều cho bà X, và bốn người con(A,B,C,D)".

Căn cứ Điều 635 và Điều642 BLDS năm 2005 quy định:

- "Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế". (Điều 635)

- "1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.

3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế". (Điều 642)

Điều 643Bộ Luật Dân sự năm 2005 vềngười không được nhận di sản thừa kế:

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Như vậy bạn cần xem xét xem các người con của ông S ai từ chối nhận thừa kế hay thuộc diện không được nhận thừa kế để quyết định phần thừa kế mà ông A được hưởng.

Khi ông A chết thì phần di sản ông nhận được từ ông S sẽ được để lại thừa kế cho vợ và con ông A. Về phần bà X, khi chết bà có để lại di chúc tặng toàn bộ thừa kế cho người con D, vì vậy D chỉ có thể nhận phần di sản do bà X để lại chứ không phải toàn bộ ngôi nhà. Vì vậy, vợ con anh A hoàn toàn có thể đòi phần giá trị từ di sản thừa kế của mình với D. Nếu D không đồng ý chia di sản thừa kế thì vợ con anh A có thể nhờ Tòa phân chia di sản thừa kế mà mình được nhận.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.