Mức lãi suất cho vay như thế nào thì bị coi là vượt quá mức lãi suất cho vay cơ bản?

Lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.

Hỏi: Trong lúc cấp bách chị tôi có đi vay tiền của một người quen với số tiền là 30.000.000đ. Người quen đó cho chị tôi vay và bắt chị tôi trả vốn cả lãi là 60.000.000đ. Đề nghị luật sư tư vấn hành vi này có được coi là hành vi cho vay nặng lãi không. ( Hoa Mai - Thái Bình)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Hồng Ngọc - Tổ tư vấn pháp luật dân sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo quy định của pháp luật hiện hành về lãi suất cho vay: “1.Lãi suất do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. (Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2015)

Về lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước, tại Điều 1 Quyết định 2868/QĐ-NHNN quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 9,0%/năm .Như vậy, lãi suất do các bên thỏa thuận sẽ không được vượt quá: 9% x 150% = 13,5%/năm và lãi suất cho vay tối đa trung bình một tháng sẽ là: 13,5 : 12 = 1,125%/tháng.

Trường hợp của chị bạn do bạn không cung cấp rõ thông tin hai bên thỏa thuận về lãi suất hàng tháng phải trả là bao nhiêu và số tiền chị bạn phải trả cả tiền vay ban đầu 60.000.000 đồng là số tiền trả bao gồm lãi trong khoảng bao nhiêu thời gian (trong vòng 1 tháng hay là trong thời gian 1 năm), nói cách khác bạn không trình bày rõ về thời gian vay của chị bạn cũng như lãi suất cụ thể.

Nên xác định hai trường hợp như sau:

- Trường hợp 1: chị bạn vay số tiền 30.000.000 đồng trong vòng một tháng và bên cho vay yêu cầu chị bạn trả tiền vay và tiền lãi trong vòng 1 tháng là 60.000.000 đồng. Trường hợp này thì tiền lãi 1 tháng được xác định là 30.000.000 đồng/tháng, mỗi ngày chị bạn phải trả 1.000.000 đồng tiền lãi. Vậy mức lãi suất ở đây là 100%/tháng. Với mức lãi suất như vậy đã vượt quá lãi suất theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005.

Như vậy, việc thỏa thuận mức lãi suất 100%/tháng trước hết là vi phạm pháp luật dân sự về việc áp dụng lãi suất cho vay theo quy định tại Điều 476 Bộ luật Dân sự nói trên, do đó đây là hành vi cho vay nặng lãi. Khi có tranh chấp xảy ra, pháp luật không thừa nhận và bảo vệ quyền lợi của bên cho vay đối với phần lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước.

Bên cạnh đó, hành vi cho vay nặng lãi cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự:"1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 10 lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến 10 lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một đến 5 lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến 5 năm". (Điều 163 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009)

Theo quy định của điều luật trên, việc cho vay nặng lãi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau đây:

Thứ nhất:Lãi suất cho vay cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên. Theo quy định của khoản 1 Điều 476BộLuật Dân sựvề lãi suất thì lãi suất vay do các bên thỏa thuận không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng, nếu lãi suất cho vay gấp 10 lần mức lãi suất này thì có dấu hiệu của tội cho vay nặng lãi. Ví dụ: Ngân hàng nhà nước quy định lãi suất cao nhất đối với cho vay tiền Việt Nam (đồng) kỳ hạn 3 tháng là 1%/tháng, lãi suất tối đa mà các bên có thể thỏa thuận là 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là 1,5%/tháng thì hành vi cho vay tiền (VN Đồng) kỳ hạn 3 tháng với mức lãi trên 15%/tháng (gấp từ 10 lần mức lãi suất tối đa pháp luật cho phép trở lên) sẽ bị coi là cho vay lãi nặng.

Thứ hai: Có tính chất chuyên bóc lột được hiểu là người phạm tội lợi dụng việc cho vay, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn cấp bách của người đivay để cho vay với lãi suất cao (lãi nặng) nhằm thu lợi bất chính mà thực chất là bóc lột người đi vay. Tính chất chuyên bóc lột của hành vi cho vay lãi nặng thể hiện ở chỗ: người phạm tội thực hiện hành vi cho vay lãi nặng nhiều lần, hành vi mang tính chuyên nghiệp, người phạm tội lấy việc cho vay lãi nặng làm một nghề kiếm sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

Vậy đối chiếu quy định nêu trên có thể thấy đối với trường hợp của chị bạn thì người chochị bạn vay tiền đã có dấu hiệu cấu thành tội cho vay nặng lãi. Vì vậy, chị bạn có thể nhờ đến sự can thiệp của pháp luật trong trường hợp này.

-Trường hợp 2: Trường hợp chị bạn vay số tiền 30.000.000 đồng và số tiền phải trả sau một năm cả gốc và lãi là 60.000.000 đồng, thì có thể xác định tiền lãi trong 1 năm của chị bạn phải trả là 30.000.000 đồng, tức là số tiền lãi 1 tháng chị bạn phải trả là 2.500.000 đồng/tháng, tương đương với mức lãi suất là 8,33%/tháng, mức lãi suất này cũng được xác định vượt quá lãi suất cho vay tối đa trung bình một tháng (1,125%/tháng). Do vậy cũng như ở trường hợp thứ nhất việc thỏa thuận mức lãi suất 8,33%/tháng cũng được xác định là vi phạm pháp luật dân sự về việc áp dụng lãi suất cho vay theo quy định tại Điều 476 Bộ luật Dân sự va khi có tranh chấp xảy ra, pháp luật cũng không thừa nhận và bảo vệ quyền lợi của bên cho vay đối với phần lãi suất vượt quá 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên trong trường hợp này mức lãi suất cho vay mặc dù cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định nhưng không cao hơn từ mười lần trở lên nên không được xác định là hành vi cấu thành tội cho vay nặng lãi theo quy định của pháp luật hình sự nhưng ở đây vẫn được coi là hành vi cho vay nặng lãi.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật dân sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.