Mẹ có được tự ý để lại mảnh đất đứng tên bố cho em trai?

Sau khi bố anh (chị) mất, mảnh đất mà bố anh chị để lại, do không có di chúc nên sẽ được chia theo hàng thừa kế. Vì vậy mẹ anh (chị) không được tự ý để lại mảnh đất đó cho em trai mà phải được sự đồng ý của những người thuộc hàng thừa kế.

Hỏi: Gia đình tôi có bốn chị em, hai chi gái đầu đã lập gia đình ở riêng còn tôi và em trai tôi. Bố tôi đẵ mất 2006 có để lại một mảnh đất đứng tên bố tôi nhưng khi bố tôi mất không để lại di chúc, và mảnh đất đó nay đã được chuyển tên sang cho mẹ của tôi đứng tên.Nay em trai tôi cưới vợ mẹ tôi muốn cho em tôi ra ở riêng trên mảnh đất đó và chuyển quyền sử dụng đất cho em trai tôi toàn bộ diên tích đất đó. Nhưng chị gái đầu của tôi không đồng ý và đòi chia đều cho bốn chị em chị gái tôi. Đề nghị Luật sư tư vấn, chị gái tôi yêu cầu như vậy có hợp pháp không? Mẹ của tôi có toàn quyền quyết định cho tặng mảnh đất đó mà không cần có sự đồng ý của chúng tôi không? (Nguyễn Xuân Giang - Thái Bình)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 631 Bộ luật dân sư năm 2005 quy định:

"Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật"".

Như vậy, sau khi bố anh (chị) mất, tài sản của bố anh (chị) hoặc được chia theo di chúc hợp pháp mà bố anh (chị) để lại, hoặc được thừa kế theo pháp luật. Mảnh đất của gia đình anh (chị) do bố anh (chị) đứng tên, đồng thời không để lại di chúc gì, vì vậy, tài sản của bố anh (chị) sẽ được thừa kế theo pháp luật. Theo đó có các trường hợp sau:

Thứ nhất, quyền sử dụng đất là của cá nhân bố anh (chị). Sau khi bố anh (chị) mất, không để lại di chúc, mảnh đất sẽ được thừa kế theo pháp luật (Điều 674 Bộ luật dân sự). Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định. Mà theo Điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự:

"Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết".

Như vậy, chị gái đầu của anh (chị) không đồng ý và đòi chia đều là hợp pháp, tuy nhiên không phải chỉ chia cho riêng bốn chị em của anh (chị) mà còn bao gồm những người khác thuộc hàng thừa kế thứ nhất được thừa kế hợp pháp và mẹ anh (chị) không có toàn quyền tặng cho mảnh đất đó mà chỉ có quyền tặng cho phần mảnh đât thuộc quyền sử dụng của mẹ anh (chị) mà không cần sự đồng ý của anh (chị).

Thứ hai, quyền sử dụng đất là tài sản chung của bố mẹ anh (chị) thì căn cứ tương tự như phần thứ nhất, tuy nhiên chỉ áp dụng trong phạm vi 50% khối tài sản đó.

Thứ ba, mảnh đất đứng tên bố anh (chị), nhưng bố anh (chị) chỉ là chủ hộ gia đình và quyền sử dụng đất là của hộ gia đình anh (chị) (Điều 108 Bộ luật dân sự). Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ. Theo đó “Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ” (Điều 107 Bộ luật dân sự). Khi bố anh (chị) mất, phần đất đó sẽ được chia theo pháp luật tương tự trường hợp một, tuy nhiên trong trường hợp này chỉ là một phần trong mảnh đất chung của hộ gia đình anh (chị).

Chị gái đầu của anh (chị) cũng có quyền đòi chia nhưng chỉ là chia một phần đất và việc chia cũng phải theo số lượng người thuộc hàng thừa kế thứ nhất chứ không chỉ riêng bốn chị em anh (chị). Và trong trường hợp này mẹ anh (chị) nếu định tặng cho quyền sử dụng phần đất của mình thì cần sự thỏa thuận giữa các chủ sử dụng mảnh đất đó hoặc theo quy định của pháp luật (Khoản 2 Điều 223 Bộ luật dân sự). Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.