Luật sư tư vấn: Sang tên quyền sử dụng đất là di sản thừa kế

Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản.

Hỏi: Cha mẹ tôi chết hơn 10 năm, anh em tôi đều lập gia đình và có nhà ở riêng hết trước khi tôi chưa lập gia đình. Từ trước giờ tôi vẫn sống cùng cha mẹ,hiện cha mẹ tôi chết đã hơn 10 năm, căn nhà đứng tên cha mẹ. Đề nghị Luật sư tư vấn,bây giờ tôi muốn sang tên tôi nhưng lúc cha mẹ tôi mất không để lại di chúc, bây giờ nếu làm thủ tục sang tên tôi có cần anh em tôi ký không? (Thị Nụ - Thái Bình)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo như bạn trình bày bố mẹ bạn đã mất hơn 10 năm nay nhưng không để lại di chúc vì vậy quyền sử dụng đất mang tên bố mẹ bạn sẽ được chia theo pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 thì:“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết".

Căn cứ vào thông tin bạn cung cấp, thì theo điểm a khoản 1 Điều 676 bạn và anh chị em bạn là người sẽ được hưởng phần di sản thừa kế. Để bạn có thể đứng tên trên mảnh đất mà bố mẹ bạn để lại, trước hết bạn và anh em bạn phải lập thỏa thuận phân chia di sản trong đó thỏa thuận về việc tặng cho bạn quyền thừa kế từ anh em bạn. sau đó, bạn mang thỏa thuận phân chia di sản này đi công chứng theo quy định tại điều 57 Luật công chứng năm 2014:"1. Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản.Trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể tặng cho toàn bộ hoặc một phần di sản mà mình được hưởng cho người thừa kế khác.2. Trường hợp di sản là quyền sử dụng đất hoặc tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản của người để lại di sản đó.Trường hợp thừa kế theo pháp luật, thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trường hợp thừa kế theo di chúc, trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có bản sao di chúc.3. Công chứng viên phải kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản và những người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng di sản; nếu thấy chưa rõ hoặc có căn cứ cho rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng pháp luật thì từ chối yêu cầu công chứng hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định.Tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản trước khi thực hiện việc công chứng.4. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người được hưởng di sản".

Như vậy, bạn và anh em bạn cần lập văn bản thỏa thuận phân chia tài sản, các thành viên trong gia đình tặng toàn bộ phần di sản mình được hưởng cho bạn. Sau đó, gửi hồ sơ yêu cầu công chứng tới Văn phòng công chứng hoặc Phòng công chứng để công chứng văn bản thỏa thuận chia di sản. Hồ sơ phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bố, mẹ bạn.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.