Khởi kiện tranh chấp đất đai có áp dụng thời hiệu khởi kiện không?

Quy định của pháp luật là thời gian khởi kiện chia tài sản là 10 năm...

Hỏi: Cha tôi có 9 người con, lúc bấy giờ trong thời điểm chiến tranh loạn lạc và con đông thực tế đó trong yêu cầu phải có 1 nơi để được an cư.Tôi (con thứ 8) có viết đơn xin (hiện nhữnggiấy tờ liên quan tới xin cấp đất vẫn còn) chính quyền cấp cho một phần đất để cho cha và các anh chị em tôi an cư sinh sống và đã được địa phương đồng ý cấp. Trong lúc đó, cha tôi mất tới giờ đã 18 năm vì trong lúc hấp hối và khẩn cấp cha tôi chưa để lại di chúc cho con cháu nên chuyện rồi trôi qua. Sau khi cha tôi mất thì phần đất mà cha tôi ở đã được cháu gái (mồ côi, con của 1 người con trong 9 anh chị em tôi) của cha tôi hợp thức hóa thành quyền sử dụng đất mà cả 9 anh em tôi không hề hay biết cho tới nay đã gần 19 năm kể từ khi cha tôi mất (chêt). Trước tình hình đó tôi vàcác anh chị e có nguyện vọng và mong muốn đứa cháu gái đó phải nhượng lại một phần đất để làm nơi thờ tự ông bà để thực hiện quyền tín ngưỡng. Vì vậy tôi muốn được tư vấn từ công ty với vấn đề sau đây: 1. Luật hiện hành có khoản, điểm nào cho phép khởi kiện hay yêu cầu người có quyền sử dụng đất mà đất đó không có thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật.2. Thủ tục đơn kiện, hay yêu cầu gồm những gì và những ai hay cá nhân nào đại diện ký tên. 3. Nếu đất đó được phân chia, thì chia như thế nào? (Nguyễn Tiến - Hà Nội)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Đại Hải - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - Trả lời:

Theo quy định tại điều 676 bộ luật dân sự 2005 như sau

"Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật:1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".

Do quy định của pháp luật là thời gian khởi kiện chia tài sản là 10 năm nhưng bố bạn mất đã được 18 năm nên đã hết thời gian khởi kiện. Tuy nhiên theo quy định tại(2.4) nghị quyết 02/2004/NQ-HĐPT thì bạn có thể làm đơn xin chia lại tài sảnnếu các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận đây là tài sản chung chưa chia.

"2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa:

Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

b. Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

-Thủ tục đòi chia lại tài sản:

a. Đơn khởi kiện(theo mẫu)

b.Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp (ví dụ: hồ sơ nhà đất, di chúc…);
c. Chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu gia đình (có chứng thực hoặc công chứng), nếu người khởi kiện là cá nhân;
d. Hồ sơ pháp lý khác của người khởi kiện, đương sự khác như: giấy phép kinh doanh, giấy chứng đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập doanh nghiệp, điều lệ hoạt động, quyết định bổ nhiệm hoặc cử người đại diện doanh nghiệp (bản sao có chứng thực), nếu là pháp nhân;
e. Bản kê các tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện (ghi rõ số lượng bản chính, bản sao);
g. Giấy chứng tử của người để lại di sản thừa kế
h. Bản kê khai di sản thừa kế
i. Biên bản giải quyết tại UBND xã, phường, thị trấn ( nếu có), tờ khai từ chối nhận di sản ( Nếu có).

-Chia tài sản như thế nào:

+Theo quy định của pháp luật thì bạn và các anh khác trong gia đình sẽ được hưởng các phần băng nhau. còn cô cháu gái sẽ hưởng phần tài sản của người bố. nhưng do mảnh đất đó đã đứng tên cô cháu gái đó nên không được chia mảnh đất mà cô cháu gái đó phải thanh toán phần tiền tương ứng với phần đất mà bạn và những người khác được hưởng theo quy định tại điều 687 bộ luật dân sự 2005.

Khuyến nghị:

1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.

2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.

3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.