Hợp đồng trao đổi đất nông nghiệp viết tay có giá trị pháp lý không ?

Hợp đồng trao đổi tài sản phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký, nếu pháp luật có quy định.

Hỏi: Anh tôi có đổi ruộng của người cùng đội sản xuấtđể thực hiện công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thời gian đổi từ năm 2006, có giấy viết tay, có xác nhận của trưởng thôn, đội trưởng sản xuất, anh tôi đã đào ao quây bờ trồng cây, đến nay gia đình đổi ruộng cho anh tôi đòi lại và muốn chiếm dụng một phần diện tíchđất liền kề của gia đình họ, để họ để sử dụng vào trồng cây. Đề nghị Luật sư tư vấn, gia đình tôi phải làm thế nào? Việc họ đòi lại ruộng đã đổi cho anh tôiđể đào ao có đúng không? (Trí Thành - Hải Dương)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Trần Thu Trang - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Điều 462 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về hợp đồng trao đổi tài sản như sau:

"1. Hợp đồng trao đổi tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó các bên giao tài sản và chuyển quyền sở hữu đối với tài sản cho nhau.

2. Hợp đồng trao đổi tài sản phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký, nếu pháp luật có quy định.

3. Trong trường hợp một bên trao đổi cho bên kia tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc không được chủ sở hữu ủy quyền thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

4. Mỗi bên đều được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là người mua đối với tài sản nhận về. Các quy định về hợp đồng mua bán từ Điều 428 đến Điều 437 và từ Điều 439 đến Điều 448 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản".

Để xác định đươc là việc bên kia (A) có quyền đòi lại tài sản của anh anh (chị) hay không. Mình cần xác định xem hợp đông trao đổi tài sản của anh anh (chị) và A có hợp pháp hay không? và có bị vô hiệu hay không?

Theo khoản 1Điều 462 thì hợp đồng trao đổi là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó các bên giao tài sản và chuyển quyền sở hữu với tài sản cho nhau. nếu anh anh (chị) và A đã thành niên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; không vi phạm các điều cấp của pháp luật, đạo đức xã hội; không giao dịch một cách giả tạo( nhằm che giấu 1 giao dịch khác); Giao dịch đó không bị nhầm lẫn về nội dung ..; đó bị đe dọa, lừa dối hay người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

Anh anh (chị) và bên kia không vi phạm các điều trên thì A không có quyền đòi lại mảnh đất đã trao đổi. ( hợp đồng vô hiệu )

Tại khoản 2 điều 462 bộ luật dân sự:

"Hợp đồng trao đổi tài sản phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký, nếu pháp luật có quy định".

Điều 134.Bộ luật dân sự năm 2005 Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức:

"Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu".

Trường hợp này anh (chị) chỉ cần đi công chứng chứng thực là đủ.

Khoản 3 điều 462 Bộ luật Dân sự năm 2005

"Trong trường hợp một bên trao đổi cho bên kia tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc không được chủ sở hữu ủy quyền thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại".

Trường hợp tại khoản 3 này. nếu 2 mảnh đất kia đều thuộc sở hữu của anh anh (chị) và A hoặc được được chủ sở hữu ủy quyền thì A không có quyền hủy bỏ hợp đồng.

Do vậy nếu anh của anh (chị) và A không vi phạm một trong các căn cứ nêu trên thì A không có quyền đòi lại tài sản.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.