Hỏi về việc làm thêm đối với người xuất khẩu lao động

Khoản 7 Điều 46 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 quy định người lao động đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài theo Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Hỏi: Em đang xuất khẩu lao động ở Nhật Bản. Trước khi đi có đặt cọc 70 triệu cho công ty vì công ty sợ em ra ngoài làm để được hưởng lương cao. Em làm việc theo hợp đồng với công ty A là 8 tiếng 1 ngày. Em hỏi em làm xong ở công ty A em ra ngoài làm thêm ở công ty B có được không? Liệu có bị mất 70.000.000 đồng mà em đã đặt cọc hay không? (Thanh Hoa - Nam Định)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Minh Anh - Tổ tư vấn pháp luật Lao động Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, về việc làm thêm

Điều 21 Bộ luật lao động 2012 quy định: “Người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động, nhưng phải bảo đảm thực hiện đầy đủ các nội dung đã giao kết.

Vậy, căn cứ quy định nêu trên, bạn có thể làm thêm ở công ty B, nhưng phải đảm bảo thực hiện đầy đủ nội dung đã giao kết trước đó, không làm ảnh hưởng xấu đến công ty mà bạn đang làm việc (không làm lộ bí mật, không ảnh hưởng đến hiệu quả công việc,…). Hơn nữa, bạn phải tuân thủ quy định pháp luật về lao động của nước sở tại (Nhật Bản).

Số tiền 70 triệu đồng là tiền ký quỹ để thực hiện hợp đồng, bạn sẽ không được trả lại khi bạn bỏ việc ở công ty A. Nếu bạn làm thêm cho công ty khác và vẫn tuân thủ hợp đồng đã ký với doanh nghiệp dịch vụ (công ty mà bạn đã đặt cọc tiền) thì không trái với quy định của pháp luật.

Thứ hai, tiền ký quỹ

Khoản 7 Điều 46 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 quy định người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp dịch vụ có nghĩa vụ ký quỹ hoặc giới thiệu người bảo lãnh theo thoả thuận với doanh nghiệp dịch vụ để bảo đảm thực hiện Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Điều 23 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 quy định về tiền ký quỹ của người lao động:

1. Người lao động thỏa thuận với doanh nghiệp dịch vụ về việc ký quỹ theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này để bảo đảm việc thực hiện Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

2. Người lao động trực tiếp hoặc thông qua doanh nghiệp dịch vụ nộp tiền ký quỹ vào tài khoản riêng được doanh nghiệp mở tại ngân hàng thương mại để giữ tiền ký quỹ của người lao động.

3. Tiền ký quỹ của người lao động được hoàn trả cả gốc và lãi cho người lao động khi thanh lý Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Trường hợp người lao động vi phạm Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tiền ký quỹ của người lao động được doanh nghiệp dịch vụ sử dụng để bù đắp thiệt hại phát sinh do lỗi của người lao động gây ra cho doanh nghiệp; khi sử dụng tiền ký quỹ để bù đắp thiệt hại, nếu tiền ký quỹ không đủ thì người lao động phải nộp bổ sung, nếu còn thừa thì phải trả lại cho người lao động.

4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định cụ thể thị trường lao động mà doanh nghiệp dịch vụ được thoả thuận với người lao động về việc nộp tiền ký quỹ; quy định thống nhất trong phạm vi cả nước mức trần tiền ký quỹ của người lao động phù hợp với từng thị trường lao động mà doanh nghiệp dịch vụ được thoả thuận với người lao động về việc nộp tiền ký quỹ; chủ trì phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định cụ thể việc quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của người lao động.

Căn cứ các quy định nêu trên, bạn sẽ được hoàn trả cả gốc và lãi khi thanh lý Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài nếu không vi phạm hợp đồng.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.