Hỏi về quyền thừa kế tài sản thuộc sở hữu chung

Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật

Hỏi: Nhà tôi có một ngôi nhà 50m2, sổ đỏ đứng tên đồng sở hữu gồm 5 người trong đó có phần suất của bà mẹ (có 10 người con) và hiện tại bà đã mất. Tôi muốn hỏi luật sư là nếu bán nhà đi ngoài chữ ký của 4 người trong sổ đỏ thì có cần chữ ký của 10 người con trong phần suất của bà mẹ không? Còn nếu không bán nhà thì phần suất của bà mẹ thì 10 người con đó có được đến ở không? Ngoài ra nhà tôi có cửa hàng cho thuê thì phần tiền suất của bà mẹ có phải chia cho 10 người không? (Trung Quân - Hà Nội)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Theo thông tin bạn cung cấp thì ngôi nhà của gia đình bạn có 5 chủ sở hữu chung (ngôi nhà thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phần chia). Điều217 Bộ luật dân sự 2005 quy định về Sở hữu chung hợp nhất như sau:

"1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung.

Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia.

2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung".

Trong 5 chủ sở hữu chung thì đã có một người qua đời, như vậy, quyền và nghĩa vụ của bà mẹ đó đối với ngôi nhà sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật về thừa kế quy định trong Điều 631 BLDS 2005: "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật".

Như vậy, các quyền và nghĩa vụ của bà mẹ đã chết đối với ngôi nhà đó sẽ được chia đều cho 10 người con của bà (nếu bà không có di chúc). Và 10 người con này cũng trở thành chủ sở hữu chung đối với ngôi nhà đó.

Nếu bạn muốn bán ngôi nhà này đi thì bạn phải có được chữ ký của tất cả các chủ sở hữu chung còn lại vì theo quy định tại khoản 2 điều 223 BLDS 2005 về định đoạt tài sản chung

2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.

Nếu không có sự đồng ý của tất cả các đồng chủ sở hữu về việc bán ngôi nhà thì bạn có thể bán phần quyền của bạn đối với ngôi nhà đó, pháp luật quy định vấn đề này như sau:

3. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác.

Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Toà án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.

Nếu không bán ngôi nhà này thì 10 người con của bà mẹ hoàn toàn có quyền đến ở vì theo khoản 2 điều 222 BLDS 2005 về sử dụng tài sản chung thì Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung, nếu không có thoả thuận khác.”

Ngôi nhà thuộc sở hữu chung đó có một phần dùng để cho thuê thì lợi tức từ việc cho thuê nhà (tiền thuê nhà) cũng sẽ được chia đềucho 10 người con của bà mẹ tương ứng với phần lợi tức của bà mẹ hưởng khi khi còn sống.

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.