Hỏi về bồi thường hợp đồng bảo vệ

Công ty Luật TNHH Everest tư vấn trường hợp bồi thường hợp đồng bảo vệ khi người nhận tiền không có thẩm quyền thành lý hợp đồng.

Hỏi: Công ty A và công ty B có ký kết hợp đồng bảo vệ. Theo đó, công ty A cung cấp cho Công ty B một vị trí bảo vệ, thời hạn hợp đồng là 6 tháng, trong giá trị hợp đồng là 70.000.000đ. Việc thực hiện hợp đồng đến tháng thứ 3, thì công ty B thông báo bằng văn bản cho công ty A là ngày 22 chấm dứt hợp đồng và cũng ngay ngày 22. Công ty B trả đủ tiền cho công ty A, Công ty A cử người qua nhận đủ tiền, trong biên nhận có ghi là hợp đồng coi như chấm dứt. Trong điều khoản của hợp đồng có ghi nếu bên đơn phương chấm dứt hợp đồng trướcthời hạn thì phải bồi thường 100% giá trị của hợp đồng, công ty A cho rằng, việc qua nhận tiền chứ không phải thanh lý hợp đồng, người nhận tiền không có thẩm quyền thanh lý hợp đồng, việc này công ty B có phải bồi thường 100% giá trị hợp đồng không? (Duy Nhất - Hà Tĩnh)
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Bùi Thị Phượng - Tổ tư vấn pháp luật hợp đồng Công ty Luật TNHH Everest trả lời:


- Căn cứ vào Điều 422 Bộ luật dân sự năm 2005 thì các bên có quyền thoả thuận phạt vi phạm:

"Điều 422.Thực hiện hợp đồng có thoả thuận phạt vi phạm

1. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.

2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận.

3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.

Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm".

- Điều 426 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau:

"Điều 426.Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự

1. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.

2. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

3. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán.

4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại".

VậyCông ty A và công ty B có thoả thuận về việc chấm sứt hợp đồng dân sự, tuy nhiên các bên phải chịu một mực phạt là100% giá trị của hợp đồng khi một bên chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Công ty B đã đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn nên công ty này phải chịu một mức phạt là 70.000.000 vnđ. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm công ty A nhận được thông báo về việc chấm dứt. Công ty A và công ty B không phải tiếp tụcthực hiện nghĩa vụ. Nếu công ty A đã cung cấp vị trí bảo vệ cho công ty B thì có quyền yêu cầu công ty B thanh toán. Tuy nhiên, trong trường hợp trên, công ty B chấm dứt Hợp đồng và có thông báo trước công ty A, sau đó, công ty A cũng nhận lại phần tiền mà không có yêu cầu gì thì có thể hiểu, bên A đã đồng ý về việc chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ bảo vệ. Còn nếu công ty A có căn cứ cho rằng việc nhận tiền trên không liên quan gì đến việc thanh lý hợp đồng, và người được cử qua nhận tiền đã vượt quá thẩm quyền của mình khi ký hợp đồng thanh lý, thì công ty B vẫn phải có trách nhiệm nộp phạt vi phạm cho công ty A.

Khuyến nghị:
  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hợp đồng mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.