Hình phạt đối với tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ năm 2017

Cưỡng ép kết hôn, được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác để buộc người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ.

Cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ, được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác để người khác không thể kết hôn được hoặc không thể duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện tiến bộ.
 Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thị Yến - Tổ tư vấn pháp luật hình sự của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:


Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS) quy định về tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ như sau:

"Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm".

1. Dấu hiệu pháp lý của tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ

- Khách thể của tội phạm: Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng, hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ, đây cũng là nội dung những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Chính vì thế, hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân xâm phạm chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được pháp luật bảo vệ.


+ Hành vi của tội phạm là hành vi cưỡng ép người khác kết hôn với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

+ Hành vi cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ là hành vi dùng các thủ đoạn khác nhau buộc người khác buộc phải lựa chọn việc lấy vợ, lấy chồng dù họ không muốn. Hành vi cản trở người khác kết hôn là hành vi ngăn cản việc kết hôn của một người trái ý muốn của họ dù quan hệ tiến tới hôn nhân trong trường hợp này không thuộc các điều kiện cấm kết hôn quy định tại Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình. Hai loại hành vi này được thực hiện khi những người khác chưa thiết lập quan hệ hôn nhân.

+ Hành vi cản trở người khác duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện tiến bộ là hành vi ngăn cản việc tiếp tục mối quan hệ vợ chồng được thiết lập sau khi kết hôn một cách hợp pháp buộc người khác phải ly hôn trái với nguyện vọng của họ. Loại hành vi trên được thực hiện khi những người khác đã tồn tại quan hệ hôn nhân.

+ Các thủ đoạn hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần… mà Điều 146 BLHS liệt kê được giải thích như sau:

Hành hạ là hành vi đối xử với người lệ thuộc mình dẫn tới những đau đớn về mặt thể chất nhưng đánh đập, bỏ đói, bắt giữ, nhốt trói… Ngược đãi là hành vi đối xử với người lệ thuộc mình dẫn đến những đau đớn về mặt tinh thần như mắng chửi, sỉ nhục hoặc hành vi khác làm người bị lệ thuộc cảm thấy nhục nhã, tủi hổ…

Uy hiếp tinh thần là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích căn bản của người khác hoặc được người khác yêu quý, coi trọng như dọa gây thương tích, gây thiệt hại về tài sản hoặc đe dọa gây thiệt hại cho người định lấy làm vợ, làm chồng…

Yêu sách về của cải là hành vi đòi hỏi việc kết hôn phải thỏa mãn những điều kiện về kinh tế một cách không rõ ràng vượt quá khả năng kinh tế của một bên cho phép kết hôn hoặc thực hiện nghi lễ kết hôn hoặc thực hiện nghi lễ kết hôn hoặc để đảm bảo cho đời sống hôn nhân sau này như thách cưới, đòi của hồi môn với giá trị rất lớn nhằm ngăn cản, chia rẽ hai bên không thể vượt qua rào cản về kinh tế để tiến đến hôn nhân.

Thủ đoạn khác là những hành vi khác trái pháp luật nhằm mục đích cưỡng chế ép hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

Những hành vi trên sẽ bị xử lý hình sự nếu trước đó đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi này. Mặt khác, một điểm cần lưu ý là những hành vi này nếu đã đủ yếu tố cấu thành các tội hành hạ người khác hoặc tội bức tử thì sẽ bị xử lý về các tội này.

Một điểm khác cần phân biệt những trường hợp sự tự nguyện trong việc đi tới hôn nhân dựa trên những thủ đoạn lừa dối để lấy người có tài sản, có điều kiện về kinh tế, để lấy người khỏe mạnh, không được coi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn.

- Mặt chủ quan của tội phạm: Với các đặc điểm nêu trên, loại tội phạm này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, do rất nhiều động cơ khác nhau, song đều chung mục đích là dẫn đến một quan hệ hôn nhân hoặc chấm dứt hôn nhân hoặc chấm dứt việc kết hôn mang tính ép buộc.

- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người đã thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự.

2. Hình phạt của tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ

Loại tội phạm này chỉ có một khung hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm, thể hiện quan điểm về mức hình phạt không cao của các nhà làm luật. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì việc xử lý các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình không những phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản của hình phạt và quyết định hình phạt, mà phải phù hợp với những đặc điểm của quan hệ gia đình và đạo đức xã hội, khi người phạm tội hầu hết là những bậc gia trưởng trong gia đình dòng họ, có công lao nhất định đối với việc sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục người bị cưỡng ép kết hôn hay cản trở hôn nhân, mặt khác, phải tính đến việc khôi phục những quan hệ tình cảm, những giá trị gia đình sau khi tội phạm thực hiện.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@everest.net.vn.z
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật hình sự mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.