Có được hưởng trợ cấp mất việc khi công ty khó khăn phải cắt giảm nhân sự không?

Người sử dụng lao động trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm theo quy định của pháp luật mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương.

Hỏi: Tôi ký hợp đồng lao động với công ty thời hạn 1 năm. Thời hạn hết hạn hợp đồng của tôi ngày 16/12/2015. Theo luật, công ty và tôi có 30 ngày để ký tiếp hợp đồng mới, tuy vậy đến ngày 14/01/2016 (chưa hết thời hạn 30 ngày ký hợp đồng mới), công ty có văn bản thông báo tôi rằng: công ty không thể tiếp tục ký hợp đồng với tôi nữa do tình kinh doanh khó khăn, cần giảm nhân sự. Trong thông báo, Công ty cho tôi làm thêm 30 ngày nữa rồi bàn giao công việc, nghĩa là công ty có thông báo trước cho tôi thời hạn chấm dứt hợp đồng là 30 ngày. Xin hỏi: trong trường hợp này, công ty có phải trả trợ cấp mất việc cho tôi không? (Bùi Anh Tuấn - Bắc Giang)



>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Ngô Đức Cường - Tổ tư vấn pháp luật lao động của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, theo thông tin anh (chị) cung cấp thì việc công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với nhân viên thuộc vào Điểm c Khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012: "c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc". Và khi chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại khoản 1 điều 38 người sử dụng lao động phải có trách nhiệm thông báo cho người lao động biết trước ít nhất là 30 ngày đối với hợp đồng xác định thời hạn theo Điểm b Khoản 2 Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012. Ở đây hợp đồng của anh (chị) ký kết với công ty có thời hạn một năm là hợp đồng có xác định thời hạn. Nên khi tiến hành chấm dứt hợp đồng công ty thực hiện như thế là đúng theo quy định của pháp luật. Cụ thể nội dung quy định tại điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012 như sau: “1. Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây: a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động; b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động; c) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc; d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này. 2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước: a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn; b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn; c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng”.
Khi người sử dụng lao động tiến hành chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quy định tại Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012: “1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động. 2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày. 3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động. 4. Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị chấm dứt hoạt động, bị giải thể, phá sản thì tiền lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết được ưu tiên thanh toán”.
Thứ hai, anh (chị) hỏi công ty chấm dứt hợp đồng lao động thì có phải trả trợ cấp mất việc cho người lao động hay không? Thì theo quy định trong Bộ luật Lao động 2012 thì việc trả trợ cấp mất việc chỉ được áp dụng đối với trường hợp trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế (Điều 44 Bộ luật lao động 2012); hoặc khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp (điều 45 Bộ luật Lao động 2012). Nếu trường hợp công ty cho thôi việc thuộc một trong hai trường hợp này thì công ty phải trả trợ cấp mất việc cho người lao động: “1. Người sử dụng lao động trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm theo quy định tại Điều 44 và Điều 45 của Bộ luật này, mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương. 2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. 3. Tiền lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động mất việc làm” (Điều 49 Bộ luật Lao động năm 2012).

Khuyến nghị:
  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật lao động mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.