Có được chuyển nhượng tài sản khi người để lại di chúc không cho phép?

Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được...

Hỏi: Sau khi cha tôi mất nhà nước mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên mẹ tôi. Mẹ tôi có di chúc nhà đất cho 4 con của mình đều được ở không được bán.Mẹ tôi mất, anh 2 tôi cũng mới mất, chị 3 định cư nước ngoài. Hiện nay trong hộ khẩu nhà vẫn còn tên mẹ tôi là chủ hộ, anh 2 tôi, em út tôi, vợ tôi cùng 2 con tôi. Vậy em út tôi muốn bán nhà chia 4 anh chị em có được không? Vợ con tôi có tên trong hộ khẩu có tranh chấp được không? (Thanh Tuyền - Hải Dương)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Thứ nhất, việc mẹ bạn lập di chúc nhà đất cho 4 người con, trong di chúc ghi phần di sản này cả 4 người con đều được ở không được bán. Do thông tin bạn cung cấp không nhắc tới việc di sản để lại này có dùng vào việc thờ cúng hay không nên chúng tôi chia ra làm 2 trường hợp như sau:

+ Trường hợp 1:

Nếu di sản mà mẹ bạn để lại được coi là di sản dùng vào việc thờ cúng. Căn cứ theo Điều 670 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng như sau: “Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”.

Như vậy, nếu trong di chúc của mẹ bạn đã nêu rõ thửa đất đó sẽ được dùng vào việc thờ cúng thì các thừa kế của mẹ bạn không được quyền chuyển nhượng thửa đất đó. Cho dù có sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế về việc chuyển nhượng một phần thửa đất cũng không được thực hiện.

+ Trường hợp 2:

Di chúc của mẹ bạn không nêu rõ sẽ sử dụng thửa đất đó vào việc thờ cúng mà chỉ có nguyện vọng 4 anh chị em bạn sẽ giữ lại mảnh đất của gia đình, không chuyển nhượng cho người khác. Nếu đúng theo ý nguyện của mẹ bạn theo di chúc thì 4 anh chị em bạn không được quyền chuyển nhượng thửa đất đó.

Tuy nhiên, trên thực tế thì không có cơ chế nào để kiểm soát việc những người thừa kế có thực hiện theo đúng ý nguyện của người lập di chúc hay không. Bởi lẽ, sau khi mẹ bạn mất, 4 anh chị em bạn có quyền làm thủ tục theo quy định của pháp luật để đăng ký sang tên quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở mà 4 anh chị em bạn được nhận theo di chúc. Khi đã trở thành chủ sở hữu khối tài sản được thừa kế, người thừa kế có toàn quyền của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) nên việc bán hay không bán khối tài sản này tùy thuộc vào người được thừa kế.

Mặt khác, các cơ quan thực hiện thủ tục sang tên này cũng không ghi nhận điều kiện chuyển nhượng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (giấy chứng nhận). Do đó, việc cho 4 anh chị em bạn được thừa kế nhà đất nhưng lại không được chuyển nhượng cho người khác là việc khó thực hiện được trên thực tế.

Do vậy, bạn có thể xem kỹ lại di chúc mà mẹ bạn để lại để xác định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của 4 anh chị em bạn đối với thửa đất nêu trên, trong di chúc không nhắc tới việc dùng vào việc thờ cúng thì em út bạn vẫn có thể bán phần di sản mẹ bạn để lại, sau đó chia đều cho 4 anh chị em.

Thứ hai, về chia thừa kế theo di chúc.

Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di sản cho từng người thừa kế; giao nghĩa vụ cho người thừa kế;...(căn cứ tại Điều 648 BLDS 2005). Theo quy định pháp luật dân sự về thừa kế theo di chúc thì di sản sẽ được phân chia cho những người thừa kế theo như nội dung có trong di chúc, tuy nhiên, pháp luật dân sự có quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc tại Điều 669 BLDS 2005 như sau:

"Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”.

Do vậy, nếu trong di chúc mẹ bạn không nhắc tới phần di sản để lại cho vợ và con bạn hưởng thì sẽ họ không được hưởng phần di sản do mẹ bạn để lại, nếu có xảy ra tranh chấp thì chỉ là việc phân chia di sản của riêng 4 anh chị em bạn.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.