Chia tài sản hình thành trong thời gian ly thân khi vợ chồng ly hôn

Nguyên tắc phân chia tài sản chung vợ chồng được thực hiện theo Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

Hỏi: Vợ chồng tôi kết hôn từ tháng 3 năm 1992. Trong thời gian chung sống chung tôi không hề có hạnh phúc chồng tôi luôn cờ bạc cắm ký các đồ vật trong nhà và có hành vi đánh đập và nhục mạ tôi mỗi khi uống rượu,cho đến năm 2004 thì chúng tôi ly thân. Trong thời gian chung sống chúng tôi có 2 con chung, từ khi ly thân cho đến nay tôi phải một mình nuôi 2 con chồng tôi không có chút trách nhiệm nào, cho đến tháng 6 năm 2013 tôi đi vay mượn thêm đã làm được căn nhà cả công trình phụ khép kín là 70m2 nhưng đến năm 2014 chồng tôi lại có hành vi hành hung tôi dọa giết tôi, giờ tôi muốn làm đơn ly hôn. Vậy xin hỏi căn nhà đó có phải là nhà ở chung của 2 vợ chồng không nếu ra tòa thì tòa sẽ giải quyết thế nào? (Khánh Ngân - Hà Nam)

Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thanh Thu - Tổ tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình Công ty Luật TNHH Everest trả lời:

Theo quy định tại Điều 33, Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng.

Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

"1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung".

Điều 43.Tài sản riêng của vợ chồng

"1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này".

Đối chiếu với trường hợp của chị, nếu như khi xây ngôi nhà và công trình phụ chị không có thỏa thuận bằng văn bản với chồng chị đó là tài sản riêng của chị, được làm từ tiền của chị thì đó vẫn được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Vì ngôi nhà này được xây khi hai vợ chồng chị vẫn tồn tại quan hệ hôn nhân. Vì vậy, trên phương diện pháp luật thì chồng chị vẫn có quyền chiếm hữu, sử dụng, định doạt ngôi nhà đó.

Về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau:

Điều 53.Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

"1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng".

Do vậy, đối với trường hợp của chị thì khi chị ly hôn với chồng ngôi nhà đó sẽ vẫn được chia, trước hết là do hai vợ chồng thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì về nguyên tắc se được chia đôi nhưng có xem xét đến các yếu tố quy định tại khoản 2 Điều 59.

Theo đó để bảo vệ quyền lợi của mình, khi ra tòa chị cần cung cấp thông tin và chứng minh cho tòa việc xây ngôi nhà này là tiền của chị trong thời gian ly thân, chồng chị không hề có sự đóng góp bằng tiền hay công sức nào. Đồng thời, chị nói rõ về hoàn cảnh của mình, về việc nuôi dưỡng hai con. Và đặc biệt là chị cần cung cấp chứng cứ cho tòa việc chồng chị có thực hiện hành vi đánh bạc, mang đồ dùng trong nhà đi cắm, có hành vi đánh đập, nhục mạ và hành hung chị. Khi chị cung cấp cho tòa các chứng cứ chứng minh lỗi của chồng chị trong việc vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng thì tòa sẽ căn cứ vào lỗi đó để phân chia tài sản.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật Hôn nhân và Gia đình mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt.Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.