Chia di sản thừa kế theo pháp luật khi hết thời hiệu khởi kiện?

Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 về người thừa kế theo pháp luật

Hỏi: Bà nội tôi có một mảnh đất mang tên sổ đỏ của Bà nội, nay ông bà nội tôi đã mất không để lại di chúc cho bất cứ người con nào và không có giấy tờ hợp pháp nào.Hiện ông bà tôi có 5 người con ,3 trai và 2 gái. hai bác tôi hiện nay đã rời quê đi nơi khác lập nghiệp nhưng nay bác cả tôi quay trở về và đòi làm nhà ở trên mảnh đất của bà nội tôi để sinh sống như vậy có được hay không? Bác cả tôi cho người khác thuê sử dụng trên mảnh đất của bà nội tôi có được hay không và số tiền cho thuê đó được tính như thế nào ai là người sử dụng số tiền cho thuê đó hay chia đều cho tất cả 5 người con của ông bà.Bác cả tôi đòi bán mảnh đất của bà nội tôi có được hay không? (Thành Công - Hà Nam)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Thành Đạt - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Do thông tin bạn đưa ra không đầy đủ về thời điểm ông, bà mất không để lại di chúc đến thời điểm người con cả trở về yêu cầu phân chia di sản. Nên không thể xác định chính xác việc con cả yêu cầu chia có căn cứ và hợp pháp hay không? Tuy nhiên, sẽ có hai trường hợp xảy ra:

+Trường hợp 1, thời điểm ông bà mất đến khi Bác cả quay trở về yêu cầu phân chia di sản là trên 10 năm thì về nguyên tắc vẫn có quyền yêu cầu chia ( là người thừa kế hợp pháp theo pháp luât)nhưng do quá thời hiệu khởi kiện. Nên dù sau khi trở về người cậu cả cũng không để đòi lại để xây nhàđược vì hết thời hiệu khởi kiện theo quy định. Cụ thể:

Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 về người thừa kế theo pháp luật như sau:

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại".

Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định vềthời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:

"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

Như vậy, sau khi trở về thì cậu cả bạn cũng không có bất cứ quyền gì đối với phần di sản đó. Nên không có quyền tiến hành việc xây dựng, cho thuê hoặc yêu cầuthực hiện giao dịch mua bán để phân chiađược. Trừ trường hợp quy định tại nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP:

"2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

+Trường hợp 2, tính từ thời điểm ông, bà mất tới thời điểm cậu cả trở về yêu cầu chia dưới 10 năm thì đương nhiên vẫn còn quyền đối với di sản thừa kế đó. Tuy nhiên, mặc dù còn quyền nhưng không đồng nghĩa với việc được phép tự ý tiến hành việc xây dựng, cho thuê, mua bán đất mà cần có sự đồng ý hoặc 5 anh, chị em ( những người thừa kế hợp pháp )sẽ cùng thỏa thuận về việc phân chia tại văn phòng công chứng. Sau khi hoàn tất việc công chứng văn bản thỏa thuận phân chia thì người cậu cả mới được phép thực hiện mọi giao dịch liên quan tới phần di sản mà mình được hưởng.

Khuyến nghị:

  1. Để có tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198.
  2. Nội dung tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.