Chị dâu có quyền sở hữu mảnh đất do ông bà khai hoang để lại?

Pháp luật đất đai không quy định về việc con dâu không được quyền đối với mảnh đất mà bố mẹ chồng khai hoang, hơn nữa họ đã ở ổn định trên mảnh đất đó trên 30 năm và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì...

Hỏi: Năm 1970 vợ chồng ông A khai hoang mảnh đất A tại Thôn K. Ông bà có hai người con là anh Q và chị T. Đến năm 1980 thì con trai của ông bà là anh Q lấy chị M ở cùng thôn và về sống trên mảnh đất khai hoang đó. Sau đó vợ chồng ông A mất thì chị M vẫn ở trên mảnh đất đó và hàng năm đóng thuế cho nhà nước. Đến năm 1998 thì nhà nước có chủ trương cấp giấy chứng nhận và thực hiện kê khai thông tin để cấp giấy chứng nhận cho người dân trong toàn huyện. Chị Mđược cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên chị và sử dụng từ đó đến nay và không có tranh chấp gì. Đến năm 2015 thì chịT yêu cầu chị Mtrả lại phần đất trên do đất này là của tổ tiên để lại, chị Mchỉ là con dâu nên không có quyền gì đối với mảnh đất đó. Những người dân xung quanh cũng xác nhận trước kia đất là do ông bà A khai hoang. Đề nghị Luật sư tư vấn, ai là người có quyền đối với mảnh đất này? (Nguyễn Thanh An – Yên Bái)

>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>>Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Phạm Hồng Phúc - Tổ tư vấn pháp luật bất động sản của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

-Theo quy định tại khoản 1, điều 2, luật đất đai 1993 quy định:

Người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.”

Như vậy,chị M và Anh Qđã lấy nhau từ năm 1980 và sống ổn định trên mảnh đất này, hàng năm đóng thuế cho nhà nước. Đến năm 1998, nhà nước có chủ chương cấp giấy chứng nhận quyền sử đất cho người dân toàn huyện. Theo quy định nêu trên thì vợ chồng chị M hoàn toàn có quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và việc chị M đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng quy định của pháp luật. Khi đó, mảnh đất này là tài sản chung của hai vợ chồng anh chị theo quy định tại điều 14, luật hôn nhân gia đình 1986

-Đến năm 2015, chị Tlại yêu cầu chị M trả lại phần trên với lý do đất này là đất của tổ tiên để lại, chị M chỉ là con dâu không có quyền gì điều này là không hợp lý. Vì lý do sau:

+ Chị Tkhông phải là chủ sở hữu thực sự của mảnh đất đó mảnh đất đó là do bố mẹ chị T khai hoang nên chủ sở hữu là ông bà A. Căn cứ theo quy định của bộ luật dân sự 2005 như sau:

Ðiều 247. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu

“1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Ðiều này.

2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.”

Ðiều 255. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu

“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm hữu hợp pháp bằng những biện pháp theo quy định của pháp luật”.

Ðiều 256. Quyền đòi lại tài sản

“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Ðiều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Ðiều 257 và Ðiều 258 của Bộ luật này”.

Ðiều 258. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình

“Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa."

Do đó, chị Tkhông có quyền đòi lại mảnh đất này.

+ Pháp luật đất đai không quy định về việc con dâu không được quyền đối với mảnh đất mà bố mẹ chồng khai hoang, hơn nữa cho đến năm 2015 (35 năm) chị M là người đã ở ổn định trên mảnh đất đó, thực hiện nghĩa vụ với nhà nước và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên chị M bây giờ được coi là chủ sở hữu của mảnh đất này.

Như vậy, dựa trên những căn cứ đã nêu thì chị M đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng quy định pháp luật và chị Tkhông có quyền đòi lại mảnh đất này.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật bất động sản mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Tại thời điểm quý Vị đọc bài viết này, các điều luật chúng tôi viện dẫn có thể đã hết hiệu lực, hoặc đã được sửa đổi, bổ sung; các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.