Cháu có quyền đòi chia di sản thừa kế của ông nội?

Do ông nội chết không để lại di chúc nên di sản sẽ được chia theo pháp luật, cháu ruột của người mất thuộc hàng thừa kế thứ hai do đó không có quyền đòi chia di sản khi những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất vẫn còn sống và không từ chối nhận di sản.

Hỏi: Ông nội của tôi ngày trước có khai hoang được một mảnh đất, nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ). Ông tôi mất năm 1994. Đến năm 2003 bố tôi mới đi làm sổ đỏ và mảnh đất này đứng tên bố tôi. Mới đây, con của chú tôi về thăm gia đình và có ý muốn được chia phần đất ông bà để lại. Đề nghị Luật sư tư vấn, gia đình tôi có phải chia đất không? (Nguyễn Nam Anh - Thái Nguyên)

>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198
>>> Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài (24/7) gọi: 1900 6198

Luật gia Nguyễn Văn Nam - Tổ tư vấn pháp luật thừa kế của Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:

Về nguồn gốc tài sản là do ông nội của anh (chị) để lại trước khi chết (dù tài sản này chưa được đăng ký quyền sử dụng). Vào năm 1991 ông nội của anh (chị) chết. Theo quy định của pháp luật thì thời điểm ông nội anh (chị) chết được xác định là thời điểm mở thừa kế. Căn cứ khoản 1, Điều 633 BLDS quy định vềthời điểm, địa điểm mở thừa kế, cụ thể như sau:

"1.Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này.

Như vậy, mốc thời gian 1989 sẽ được xem là thời điểm để những người thừa kế theo pháp luật có quyền chia di sản. Thời hiệu yêu cầu chia di sản trong trường hợp này là 10 năm tính từ năm 1989 theo quy định tại điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 như sau:

"Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Trong trường hợp này, năm 1989 ông nội anh (chị) chết không để lại di chúc, tính đến nay là khoảng 27 năm và không có thỏa thuận của các đồng thừa kế. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì tài sản này được coi là tài sản chung và khi chia sẽ áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự về tài sản chung để chia. Điều này được quy định tại Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình như sau:

2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế:

a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau: a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc; a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ; a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.”

Theo như thông tin anh (chị) cung cấp thì con của chú anh (chị) về thăm gia đình và muốn chia phần đất ông bà để lại. Căn cứ các quy định của pháp luật thì con của chú anh (chị) không có quyền yêu cầu chia tài sản vì không phải là người thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật được quy định tại điều 676 BLDS như sau:

"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Căn cứ vào quy định nêu trên thì những người ở hàng thừa kế thứ nhất (4 người con của ông nội anh (chị)) sẽ là đồng sở hữu đối với tài sản chung nêu trên.

Như vậy, nếu con của chú anh (chị) yêu cầu chia tài sản thì các bên có thể thỏa thuận chia tài sản, các bên không thỏa thuận được mà con của chú anh (chị) muốn chia tài sản thì phải yêu cầu Tòa án chia tài sản. Nếu con của chú anh (chị) khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện vì lý do người khởi kiện không có quyền khởi kiện.

Nếu những người ở hàng thừa kế thứ nhất (04 người con của ông nội bạn) khởi kiện yêu cầu Tòa án chia thừa kế thì Tòa án sẽ áp dụng các quy định về tài sản chung để giải quyết và việc giải quyết vụ án sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Khi những người ở hàng thừa kế thứ nhất yêu cầu Tòa án chia tài sản thì gia đình anh (chị) phải thực hiện việc chia tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án.

Khuyến nghị:

  1. Để có ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, Quý vị vui lòng liên hệ với các Luật sư chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6198, hoặc E-mail: info@luatviet.net.vn.
  2. Nội dung bài tư vấn pháp luật thừa kế mà Công ty Luật TNHH Everest cung cấp, Quý vị chỉ nên xem như nguồn tài liệu tham khảo.
  3. Các điều luật chúng tôi viện dẫn trong bài viết có thể đã hết hiệu lực hoặc đã được sửa đổi, bổ sung. Các thông tin trong tình huống là cá biệt. Do đó, Chúng tôi không đảm bảo những thông tin này có thể áp dụng cho mọi trường hợp, mọi đối tượng, ở mọi thời điểm.